Nội dung tiêu đề 2

Phần viết nội dung tiêu đề 2

Thứ Năm, 30 tháng 5, 2013

VỀ THĂM CỤ TRẠNG TRÌNH - NGUYỄN BỈNH KHIÊM . BÀI 2.


Sấm Trạng Trình

1 - Vận lành mừng gặp tiết lành
2 - Thấy trong quốc ngữ lập thành nên câu
3 - Một câu là một nhiệm mầu
4 - Anh hùng gẫm được mới hầu giá cao
5 - Trải vì sao mây che Thái ất
6 - Thủa cung tay xe nhật phù lên
7 - Việt Nam khởi tổ xây nên
8 - Lạc Long ra trị đương quyền một phương
9 - Thịnh suy bỉ thới lẽ thường
10 - Một thời lại một nhiễu nhương nên lề
11 - Ðến đinh Hoàng nối ngôi cửu ngũ
12 - Mở bản đồ rủ áo chấp tay
13 - Nhự đao phút chốc đổi thay
14 - Tập bát tử rày quyền đã nổi lên
15 - Ðông a âm vị nhi thuyền
16 - Nam phương kỳ mộc bổng liền lại sinh
17 - Chấn cung hiện nhật quang minh
18 - Sóng lay khôn chống trường thành bền cho
19 - Ðoài cung vẽ rạng trăng thu
20 - Ra tay mở lấy đế đô vạn toàn
21 - Sáng cửu thiên ám vầng hồng nhật
22 - Dưới lẫn trên nhà vẫn uống quen
23 - Sửa sang muôn việc cầm quyền
24 - Ngồi không ai dễ khẫng nhìn giúp cho
25 - Kìa liệt vương khí hư đồ ủng
26 - Mặc cường hầu ong ỏng tranh khôn
27 - Trời sinh ra những kẻ gian
28 - Mặt khôn đổi phép, mặc ngoan tham tài
29 - Áo vàng ấm áp đà hay
30 - Khi sui đấp núi khi say xây thành
31 - Lấy đạt điền làm công thiên hạ
32 - Ðược mấy năm đất lở giếng mòn
33 - Con yết ạch ạch tranh khôn
34 - Vô già mở hội mộng tôn làm chùa
35 - Cơ trời xem đã mê đồ
36 - Ðã đô lại muốn mở đô cho người
37 - Ấy lòng trời xuôi lòng bất nhẫn
38 - Suốt vạn dân cưu giận nhân than
39 - Dưới trên dốc chí lo toan
40 - Những đua bán nước bán quan làm giàu
41 - Thống rủ nhau làm mồi phú quí
42 - Mấy trung thần có chí an dân
43 - Ðua nhau làm sự bất nhân
44 - Ðả tuần bốn bể lại tuần đầu non
45 - Dư đồ chia xẻ càn khôn
46 - Mối giềng man mác khiếp mòn lòng nhau
47 - Vội sang giàu giết người lấy của
48 - Sự có chăng mặc nọ ai đôi
49 - Việc làm thất chính tơi bời
50 - Minh ra bổng lại thất thôi bấy giờ
51 - Xem tượng trời đả gia ra trước
52 - Còn hung hăng bạc ngược quá xưa
53 - Cuồn phong cả sớm liền trưa
54 - Ðả đờn cửu khúc còn thơ thi đề
55 - Ấy Tần Vương ngu mê chẳng biết
56 - Ðể vạn dân dê lại giết dê
57 - Luôn năm chật vật đi về
58 - Âm binh ở giữa nào hề biết đâu
59 - Thấy nội thành tiếng kêu ong ỏng
60 - Cũng một lòng trời chống khác nao
61 - Xem người dường vững chiêm bao
62 - Nào đâu còn muốn ước ao thái bình
63 - Một góc thành làm tâm chứng quỷ
64 - Ðua một lòng ích kỷ hại nhân
65 - Bốn phương rời rở hồng trần
66 - Làng khua mỏ cá lãng phân điếm tuần
67 - Tiếc là những xuất dân làm bạo
68 - Khua dục loài thỏ cáo tranh nhau
69 - Nhân danh trọn hết đâu đâu
70 - Bấy giờ thiên hạ âu sầu càng ghê
71 - Hùm già lạc dấu khôn về
72 - Mèo non chi chí tìm về cố hương
73 - Chân dê móng khởi tiêu tường
74 - Nghi nhau ai dễ sửa sang một mình
75 - Nội thành ong ỏng hư kinh
76 - Ðầu khỉ tin sứ chèo thành lại sang
77 - Bở mồ hôi Bắc giang tái mã
78 - Giữa hai xuân bỗng phá tổ long
79 - Quốc trung kinh dụng cáo không
80 - Giữa năm giả lại kiểm hung mùa màng
81 - Gà đâu sớm gáy bên tường
82 - Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không
83 - Thủy binh cờ phất vầng hồng
84 - Bộ binh tấp nập như ong kéo hàng
85 - Ðứng hiên ngang đố ai biết trước
86 - Ấy Bắc binh sang việc gì chăng ?
87 - Ai còn khoe trí khoe năng
88 - Cấm kia bắt nọ tưng bừng đôi nơi
89 - Chưa từng thấy đời nào sự lạ
90 - Bổng khiến người dá họa cho dân
91 - Muốn bình sao chẳng lấy nhân
92 - Muốn yên sao chẳng dục dân ruộng cày
93 - Ðã nên si Hoàn Linh đời Hán
94 - Ðúc tiền ra bán tước cho dân
95 - Xung xoe những rắp cậy quân
96 - Chẳng ngờ thiên đạo xây dần đã công
97 - Máy hoá công nắm tay dễ ngõ
98 - Lòng báo thù ai dễ đã nguôi
99 - Thung thăng tưởng thấy đạo trời
100 - Phù Lê diệt Mạc nghỉ dời quân ra
101 - Cát lầm bốn bể can qua
102 - Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về
103 - Quân hùng binh nhuệ đầy khe
104 - Kẻ xưng cứu nước kẻ khoe trị đời
105 - Bấy giờ càng khốn thay ôi
106 - Quỉ ma trật vật biết trời là đâu ?
107 - Thương những kẻ ăn rau ăn giới
108 - Gặp nước bung con cái ẩn đâu
109 - Báo thù ấy chẳng sai đâu
110 - Tìm non có rẩy chừng sau mới toàn
111 - Xin những kẻ hai lòng sự chúa
112 - Thấy đâu hơn thì phụ thủa ân
113 - Cho nên phải báo trầm luân
114 - Ai khôn mới được bảo thân đời này
115 - Nói cho hay khảm cung rồng dấy
116 - Chí anh hùng xem lấy mới ngoan
117 - Chữ rằng lục thất nguyệt gian
118 - Ai mà nghĩ được mới gan anh tài
119 - Hể nhân kiến đã dời đất cũ
120 - Thì phụ nguyên mới chổ binh ra


121 - Bốn phương chẳng động can qua
122 - Quần hùng các xứ điều hoà làm tôi
123 - Bấy giờ mở rộng qui khôi
124 - Thần châu thu cả mọi nơi vạn toàn
125 - Lại nói sứ Hoàng Giang sinh thánh
126 - Hoàng phúc xưa đã định tây phong
127 - Làu làu thế giới sáng trông
128 - Lồ lộ mặt rồng đầu có chử vương
129 - Rõ sinh tài lạ khác thường
130 - Thuấn Nghiêu là chí Cao Quang là tài
131 - Xem ý trời có lòng đãi thánh
132 - Ðốc sinh hiền điều đỉnh nội mai
133 - Chọn đầu thai những vì sao cả
134 - Dùng ở tay phụ tá vương gia
135 - Bắc phương chính khí sinh ra
136 - Có ông Bạch sĩ điều hòa hôm mai
137 - Song thiên nhật rạng sáng soi
138 - Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường
139 - Ðời này thánh kế vị vương
140 - Ðủ no đạo đức văn chương trong mình
141 - Uy nghi trạng mạo khác hình
142 - Thác cư một gốc kim tinh phương đoài
143 - Cùng nhau khuya sớm dượng nuôi
144 - Chờ cơ sẽ mới ra tài cứu dân
145 - Binh thơ mấy quyển kinh luân
146 - Thiên văn địa lý nhân luân càng mầu
147 - Ở đâu anh hùng hẳn biết
148 - Xem sắc mây đã biết thành long
149 - Thánh nhân cư có thụy cung
150 - Quân thần đã định gìn lòng chớ tham
151 - Lại dặn đấng tú nam chí cả
152 - Chớ vội vàng tất tả chạy rong
153 - Học cho biết lý kiết hung
154 - Biết phương hướng bội chớ dùng làm chi
155 - Hể trời sinh xuống phải thì
156 - Bất kỳ chi ngộ màng gì tưởng trông
157 - Kìa những kẻ vội lòng phú quí
158 - Xem trong mình một thí đều không
159 - Ví dù có gặp ngư ông
160 - Lưới chài đâu sẵn nên công mà hòng
161 - Xin khuyên đấng thời trung quân tử
162 - Lòng trung nghi ai nhớ cho tinh
163 - Âm dương cơ ngẩu ngô sinh
164 - Thái nhâm thái ất trong mình cho hay
165 - Văn thì luyện nguyên bài quyết thắng
166 - Khen Tử Phòng cũng đấng Khổng Minh
167 - Võ thông yên thủy thần kinh
168 - Ðược vào trận chiến mới càng biến cơ
169 - Chớ vật vờ quen loài ong kiến
170 - Biết ray tay miệng biếng nói không
171 - Ngỏ hay gặp hội mây rồng
172 - Công danh choi chói chép trong vân đài
173 - Bấy giờ phỉ sức chí trai
174 - Lọ là cho phải ngược xuôi nhọc mình
175 - Nặng lòng thật có vĩ kinh
176 - Cao tay mới ngẫm biết tình năm nao
177 - Trên trời có mấy vì sao
178 - Ðủ no biền tướng anh hào đôi nơi
179 - Nước Nam thường có thánh tài
180 - Ai khôn xem lấy hôm mai mới tường
181 - So mấy lời để tàng kim quỉ
182 - Chờ hậu mai có chí sẽ cho
183 - Trước là biết nẽo tôn phò
184 - Sau là cao chí biết lo mặc lòng
185 - Xem đoài cung đến thời bất tạo
186 - Thấy vĩ tinh liệu rạo cho mau
187 - Nguôi lòng tham tước tham giàu
188 - Tìm nơi tam hiểm mới hầu bảo thân
189 - Trẻ con mang mệnh tướng quân
190 - Ngở oai đã dấy ngở nhân đã nhường
191 - Ai lấy gương vua U thủa trước
192 - Loạn ru vì tham ngược bất nhân
193 - Ðoài phương ong khởi lần lần
194 - Muôn sinh ba cốc cầm binh dấy loàn
195 - Man mác một đỉnh Hoành Sơn
196 - Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù
197 - Ấy là những binh thù Thái Thái
198 - Lòng trời xui ai nấy biết ru ?
199 - Phá điền đầu khỉ cuối thu
200 - Tái binh mới động thập thò liền sang
201 - Lọ chẳng thường trong năm khôn xiết
202 - Vẽ lại thêm hung kiệt mất mùa
203 - Lưu tinh hiện trước đôi thu
204 - Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm
205 - Xem thấy những sương săm tuyết lạnh
206 - Loài bất bình tranh mạnh hung hăng
207 - Thành câu cá, lửa tưng bừng
208 - Kẻ ngàn đông Hải người rừng Bắc Lâm
209 - Chiến trường chốn chốn cát lầm
210 - Kẻ nằm đầy đất kẻ trầm đầy sông
211 - Sang thu chín huyết hồng tứ giả
212 - Noi đàng dê tranh phá đôi nơi
213 - Ðua nhau đồ thán quần lê
214 - Bấy giờ thiên hạ không bề tựa nương
215 - Kẻ thì phải thủa hung hoang
216 - Kẻ thì binh hỏa chiến trường chết oan
217 - Kẻ thì mắc thủa hung tàn
218 - Kẻ thì bận của bổng toan khốn mình
219 - Muông vương dựng ổ cắn tranh
220 - Ðiều thì làm chước xuất binh thủ thành


221 - Bời bời đua mạnh tranh giành
222 - Ra đâu đánh đấy đem binh sớm ngày
223 - Bể thanh cá phải ẩn cây
224 - Ðất bằng nổi sấm cát bay mịt mù
225 - Nào ai đã dễ nhìn U
226 - Thủy chiến bộ chiến mặc dù đòi cơn
227 - Cây bay lá lửa đôi ngàn
228 - Một làng còn mấy chim đàn bay ra
229 - Bốn phương cùng có can qua
230 - Làm sao cho biết nơi nào bảo thân
231 - Ðoài phương thức có chân nhân
232 - Quần tiên khởi nghỉa chẳng phân hại người
233 - Tìm cho được chốn được nơi
234 - Thái nguyên một giãi lần chơi trú đình
235 - Bốn bề núi đá riểu quanh
236 - Một đường tiểu mạch nương mình dấy an
237 - Hể đông nam nhiều phen tàn tạc
238 - Tránh cho xa kẻo mắc đao binh
239 - Bắc kinh mới thật đế kinh
240 - Dấu thân chưa dễ dấu danh được nào
241 - Chim hồng vổ cánh bay cao
242 - Tìm cho được chốn mới vào thần kinh
243 - Ai dễ cứu con thơ sa giếng
244 - Ðưa một lòng tranh tiếng dục nhau
245 - Vạn dân chịu thủa u sầu
246 - Kể dư đôi ngủ mới hầu khoan cho
247 - Cấy cày thu đải thời mùa
248 - Bấy giờ phá ruộng lọ chờ mượn ai
249 - Nhân ra cận duyệt viễn lai
250 - Chẳng phiền binh nhọc chẳng nài lương thêm
251 - Xem tượng trời biết đường đời trị
252 - Ngẩm về sau họ Lý xưa nên
253 - Giòng nhà để lấy dấu truyền
254 - Ngẩm xem bốn báu còn in đời đời
255 - Thần qui cơ nổ ở trời
256 - Ðể làm thần khí thủa nơi trị trường
257 - Lại nói sứ Hoàng Giang sinh thánh
258 - Sông Bảo Giang thiên định ai hay
259 - Lục thất cho biết ngày dày
260 - Phụ nguyên ấy thực ở dầy tào khê
261 - Có thầy nhân thập đi về
262 - Tả phụ hửu trì cây cỏ làm binh
263 - Giốc hết sức sửa sang vương nghiệp
264 - Giúp vạn dân cho đẹp lòng trời
265 - Ra tay điều chỉnh hộ may
266 - Bấy giờ mới biết rằng tài yên dân
267 - Lọ là phải nhọc kéo quân
268 - Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về
269 - Năm giáp tý vẽ khuê đã rạng
270 - Lộ ngủ tinh trinh tượng thái hanh
271 - Ân trên vũ khí vân hành
272 - Kẻ thơ ký túy kẻ canh xuân đài
273 - Bản đồ chẳng sót cho ai
274 - Nghìn năm lại lấy hội nơi vẹn toàn
275 - Vấng nền vương cha truyền con nối
276 - Dỏi muôn đời một mối xa thư
277 - Bể kình tâm lặng bằng tờ
278 - Trăng thanh ai chẳng ơn nhờ gió xuân
279 - Au vàng khỏe đặt vững chân
280 - Càng bền thế nước vạn xuân lâu dài

Chương Hai

281 - Vừa năm nhâm tý xuân đầu
282 - Thanh nhàn ngồi tựa hương câu nghĩ đời
283 - Quyển vàng mở thấy sấm trời
284 - Từ đinh đổi đời chí lực thất gian
285 - Một thời có một tôi ngoan
286 - Giúp trong việc nước gặp an thái bình
287 - Luận chung một tập kim thời
288 - Tướng quyền tử sĩ nam nhi học đòi
289 - Trượng phu có chí thời coi
290 - Những câu nhiệm nhặt đáng đôi nhành vàng
291 - Tài nầy nên đấng vẽ vang
292 - Biết chừng đời trị biết đường đời suy
293 - Kể từ nhân đoản mà đi
294 - Số chưa gặp thì biết hòa chép ra
295 - Tiếc thay hiền sĩ bao già
296 - Ước bằng Bành Tổ ắt là Thái Công
297 - Thử cho tay giúp ra dùng
298 - Tài này so cùng tài trước xem sao
299 - Trên trời kể chín tầng cao
300 - Tay nghe bằng một ti hào biết hay
301 - Hiềm vì sinh phải thời này
302 - Rấp thù mở nước tiếc thay chưng đời
303 - Hợp đà thay thánh nghìn tài
304 - Giáng sinh rủi kiếp quỉ ma nhà trời
305 - Nói ra thì lậu sự đời
306 - Trái tai phải lụy tài trai khôn luần
307 - Nói ra ám chúa bội quân
308 - Ðương thời đời trị xoay vần được đâu
309 - Chờ cho nhân đoản hết sau
310 - Ðến chừng đời ấy thấy âu nhiều nàn
311 - Trời xui những kẻ ác gian
312 - Kiếp độc đạo thiết làm loàn có hay
313 - Vua nào tôi ấy đã bày
314 - Trên đầu bất chính dưới nay dấy loàn
315 - Ðua nhau bội bạn nghịch vi
316 - Ích gia phi kỷ dân thì khốn thay
317 - Tiếc tài gẩm được thời hay
318 - Ðã sao như vậy ra tay sẽ dùng
319 - Tài trai có chí anh hùng
320 - Muốn làm tướng suý lập công xưng đời


321 - Khá xem nhiệm nhặt tộ trời
322 - Cơ mưu nhiệm nhặt mấy trai anh hùng
323 - Ði tìm cho đến đế cung
324 - Rấp phù xuất lực đế cung được toàn
325 - Bảo nhau cương kỷ cho tường
326 - Bốn phương cũng được cho yên trong ngoài
327 - Chờ cho động đất chuyển trời
328 - Bấy giờ thánh sẽ nên tay anh hùng
329 - Còn bên thì náu chưa xong
330 - Nhân lực cướp lấy thiên công những là
331 - Ðời ấy những quỉ cùng ma
332 - Chẳng còn ở thật người ta đâu là
333 - Trời cao đất rộng bao xa
334 - Làm sao cho biết cửa nhà đế vương
335 - Dù trai ai chửa biết tường
336 - Nhất thổ thời sĩ Khảm Phương thuở này
337 - Ý ra lục thất gian nay
338 - Thời vận đã định thời nầy hưng vương
339 - Trí xem nhiệm nhặt cho tường
340 - Bảo Giang thánh xuất trung ương thuở nầy
341 - Vua ngự thạch bàn xa thay
342 - Ðại ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng
343 - Gà kêu vượn hót vang lừng
344 - Ðường đi thỏ thẻ dặm chưn khôn dò
345 - Nhân dân vắng mạt bằng tờ
346 - Sơn lâm vào ở đổ nhờ khôn thay
347 - Vua còn cuốc nguyệt cày mây
348 - Phong điều vũ thuận thú rày an dân
349 - Phong đăng hoà cóc chứa chang
350 - Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây
351 - Chính cung phương khảm vần mây
352 - Thức thay thiên tử là nay trị đời
353 - Anh hùng trí lượng thời coi
354 - Công danh chấng ngại tìm đòi ra đi
355 - Tìm lên đến thạch bàn khê
356 - Có đất sinh thánh bên kia cuối làng
357 - Nhìn đi nhìn lại cho tường
358 - Chửa có sinh vương đâu là
359 - Chẳng tìm thì đến bình gia
360 - Thánh chưa sinh thánh báo ca địa bình
361 - Nhìn xem phong cảnh cũng xinh
362 - Tả long triều lại có thành đợt vây
363 - Hửu hổ uấn khúc giang này
364 - Minh đường thất diệu trước bày mặt tai
365 - Ở xa thấy một con voi
366 - Cúi đầu quen bụi trông hồ sâu
367 - ấy điềm thiên tử về chầu
368 - Tượng trưng đế thánh tô lâu trị đời
369 - Song thiên nhật nguyệt sáng soi
370 - Sinh đặng chúa ấy là ngôi chẳng cầu
371 - Ðến đời thịnh vượng còn lâu
372 - Ðành đến tam hợp chia nhau sẽ làm
373 - Khuyên cho đông bắc nam tây
374 - Muốn làm tướng suý thì xem trông này
375 - Thiên sinh thiên tử ư hoả thôn
376 - Một nhà họ Nguyễn phúc sinh tôn
377 - Tiền sinh cha mẹ đà cách trở
378 - Hậu sinh thiên tử Bảo Giang môn
379 - Kià cơn gió thổi lá rung cây
380 - Rung bắc sang nam đông tới tây
381 - Tan tác kiến kiều an đất nước
382 - Xác xơ cổ thụ sạch am mây
383 - Sơn lâm nổi sóng mù thao cát
384 - Hưng điạ tràng giang hoá nước đầy
385 - Một gió một yên ai sùng baí
386 - Cha con người Vĩnh Bảo cho hay
387 - Con mùng búng tít con quay
388 - Vù vù chong chóng gió bay trên đài
389 - Nhà cha cửa đóng then cài
390 - Giờ mầm sấm động hỏi người đông lân
391 - Tiếc tám lạng thương nửa cân
392 - Biết rằng ai có du phần như ai
393 - Bắt tay nằm nghĩ dông dài
394 - Thương người có một lo hai phận mình
395 - Canh niên tân phá
396 - Tuất hợi phục sinh
397 - Nhị ngủ dư bình
398 - Long hổ xà đầu khởi chiến tranh
399 - Can qua tứ xứ loạn đao binh
400 - Mã đề dương cước anh hùng tận
401 - Thân dậu niên lai kiến thái bình
402 - Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu
403 - Có một đàn xà đánh lộn nhau
404 - Vượn nọ leo cành cho sỉ bóng
405 - Lợn kia làm quái phải sai đầu
406 - Chuột nọ lăm le mong cản tổ
407 - Ngựa kia đủng đỉnh bước về tàu
408 - Hùm ở trên rừng gầm mới dậy
409 - Tìm về quê củ bắt ngứa tàu
410 - Cửu cửu kiền khôn dĩ định
411 - Thanh minh thời tiết hoa tàn
412 - Trức đáo dương đầu mã vĩ
413 - Hồ binh bát vạn nhập trường an
414 - Baỏ Giang thiên tủ xuất
415 - Bất chiến tứ nhiên thành
416 - Lê dân bảo bảo noản
417 - Tứ hải lạc âu ca
418 - Dục đức thánh nhân hương
419 - Quá kiều cư bắc phương
420 - Danh vi Nguyễn gia tử
421 - Kim tịch sinh ngưu lang
422 - Thượng đại nhân bất nhân
423 - Thánh ất dĩ vong ân
424 - Bạch hổ kim đái ấn
425 - Thất thập cổ lai xuân
426 - Bắc hữu kim thành tráng
427 - Nam tạc ngọc bích thành
428 - Hỏa thôn đa khuyển phệ
429 - Mục giả dục nhân canh
430 - Phú quí hồng trần mộng
431 - Bần cùng bạch phát sinh
432 - Anh hùng vương kiếm kích
433 - Manh cổ đổ thái bình
434 - Nam Việt hữu Ngưu tinh
435 - Quá thất thân thủy sinh
436 - Ðịa giới sĩ vị bạch
437 - Thủy trầm nhi bắc kinh
438 - Kỷ mã xu dương tẩu
439 - Phù kê thăng đại minh
440 - Trư thử giai phong khởi
441 - Thìn mão xuất thái bình
442 - Phân phân tùng Bắc khởi
443 - Nhiểu nhiểu xuất đông chinh
444 - Bảo sơn thiên tử xuất
445 - Bất chiến tự nhiên thành
446 - Thủy trung tàng bảo cái
447 - Hứa cập thánh nhân hương
448 - Mộc hạ châm châm khẩu
449 - Danh thế xuất nan lương
450 - Danh vi nguyễn gia tử
451 - Tinh bản tại ngưu lang
452 - Mại dử lê viện dưỡng
453 - Khởi nguyệt bộ đại giang
454 - Hoặc kiều tam lộng ngạn
455 - Hoặc ngụ kim lăng cương
456 - Thiên dử thần thức thụy
457 - Thụy trình ngũ sắc quang
458 - Kim kê khai lựu điệp
459 - Hoàng cái xuất quí phương
460 - Nhân nghĩa thùy vi địch
461 - Ðạo đức thực dữ đương
462 - Tộ truyền nhị thập ngũ
463 - Vận khải ngũ viên trường
464 - Vận đáo dương hầu ách
465 - Chấn đoài cương bất trường
466 - Quần gian đạo đanh tự
467 - Bách tính khổ tai ương
468 - Can qua tranh đấu khởi
469 - Phạm địch tánh hung hoang
470 - Ma vương sát đại quỉ
471 - Hoàng thiên tru ma vương
472 - Kiền khôn phú taỉ vô lương
473 - Ðào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng
474 - Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết
475 - Ðảo Hoàn Sơn tam liệt ngũ phân
476 - Ta hồ vô phụ vô quân
477 - Ðào viên tán lạc ngô dân thủ thành
478 - Ðoài phương phước điạ giáng linh
479 - Cửu trùng thụy ứng long thành ngũ vân
480 - Phá điền thiên tử giáng trần
481 - Dũng sỉ nhược hải mưu thần như lâm
482 - Trần công naỉ thị phúc tâm
483 - Giang hồ tử sĩ đào tiềm xuất du
484 - Tướng thần hệ xuất y chu
485 - Thứ ky phục kiến đường ngu thi hành
486 - Hiệu xưng thiên hạ thaí bình
487 - Ðông tây vô sứ nam thành quốc gia
Bạch Vân Thi Tập Chung
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
 .


Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm :Nhà tiên tri của Việt tộc

Cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI, cách đây khoảng 500 năm, trên thế giới xuất hiện hai nhà tiên tri lừng danh là Trạng Trình bên Việt Nam và Nostradamus bên Pháp. Thời đại này Tây phương nổi lên phong trào Tin Lành, bên Tầu nẩy ra tân Nho thuyết của Vương Dương Minh, bên ta phát sinh Thánh mẫu Liễu Hạnh, bắt đầu thực sự Nam Tiến mở đầu khúc rẽ lịch sử văn hóa trọng đại nhất kể từ ngày lập quốc.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhân vật lịch sử độc nhất trong sử Việt
làm cố vấn một lúc cho ba bốn phe đối nghịch nhau : Mạc, Lê,
Nguyễn, Trịnh. Ông vượt lên như một Tiên ông trên non cao mây
trắng nhìn xuống bàn cờ người, thương tình chỉ cho nhân thế đua
chen vài nước cờ tiến thoái sinh tồn tạm thời, mặc dù trong đôi mắt
tiên tri ông đã nhìn thấy rất xa lẽ được thua " ngũ bách niên tiền, ngũ bách niên hậu ".
Ông sinh năm 1491, cách đây 507 năm. Ông sinh sau Nguyễn Trãi
111 năm, trước Nguyễn Du 274 năm, kém Mạc Đăng Dung 8 tuổi và
cùng quê với ông vua xuất thân đánh cá này.
Tại Cổ Am, Hải Dương ( nay thuộc huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng ) từ
lúc sinh ra tới năm 13 tuổi ( 1481-1504 ), Nguyễn Bỉnh Khiêm được
sống yên ổn dưới triều thịnh trị Hồng Đức và Lê Hiến Tông. Từ lúc
lớn lên trong 23 năm liên tiếp ( 1504-1527 ), nhà Lê mạt vận thay đổi tới 6 ông vua, toàn là vua Quỷ giết bà nội ( chính cung vua Lê Thánh Tông ), giết cận thần , như Lê Uy Mục, hay vua Heo như Lê Tương Dực, hoang dâm bạo ngược , đến nỗi sứ thần nhà Minh phải gọi là Quỷ Vương và Trư Vương, lại còn than hộ nước Việt là " thiên ý như hà giáng quỷ vương " ! ( ý trời sao lại giáng vua quỷ ! ).
Tương truyền ông thông minh từ nhỏ, lên một tuổi đã biết nói, lên bốn đã thuộc thơ và kinh sử do bà mẹ hay chữ và giỏi tướng số chỉ dạy. Bà mẹ đặc biệt này là con gái Thượng Thư Bộ Hộ Tiến sĩ Nhữ Văn Lạn, kén chồng mãi tới năm 30 tuổi gặp ông Văn Định thấy có tướng sinh đại quý tử nên mới chịu kết duyên vợ chồng. Có thuyết nói rằng bà gặp anh đánh cá Mạc Đăng Dung ở bến đò và tiếc rẻ là không có duyên với con người có tướng cách đế vương này ! Bà lấy chồng với hy vọng sau đẻ con đạt ngôi cửu trùng, ngay từ đêm tân hôn bà đã dặn trước chồng là khi nào trăng lên đến đầu ngọn tre mới được động phòng, nào ngờ ông Văn Định động phòng hơi sớm nên bà thụ thai không đúng giờ tốt, vì thế tuy sinh quý tử nhưng không đạt được tột đỉnh thiên tử !
Cũng có truyện kể lại rằng thuở nhỏ Bỉnh Khiêm trông rất khôi ngô
tuấn tú, khi đang tắm với lũ trẻ ở sông Hàn, một người thầy tướng Tầu đi thuyền qua nói rằng " cậu này đáng lẽ tướng làm vua, nhưng vì nước da hơi thô nên chỉ làm tới Trạng nguyên Tể tướng ! "
Lúc còn bế ẵm, Bỉnh Khiêm đã biết thốt lời " mặt trời mọc ở phương
Đông " khiến mọi người đều kinh ngạc. Có lần Từ Thục phu nhân đi
vắng, ông Văn Định chơi đùa với con , đọc : " Nguyệt treo cung,
nguyệt treo cung ", Bỉnh Khiêm liền đọc tiếp : " vén tay tiên, hốt hốt rung ". Khi trở về nghe chồng kể chuyện, Từ Thục phu nhân không vui, trách rằng : " mặt trăng là khí tượng bầy tôi, sao ông lại dậy con như thế ! ". Rất có thể với biệt tài tướng số, biết trước vận số nhà Lê 40 năm sau đời Lê Thánh Tôn sẽ suy tàn, phương Đông ( Hải Dương ) có khí tượng đế vương, nên bà đã cố tạo ra một ông vua theo giờ giấc sinh đẻ chăng ?
Người mẹ có giấc mơ làm Mẫu hậu mất sớm, người con tên Khiêm ,
tự là Hanh Phủ, theo quẻ Dịch : Khiêm tốn thì hanh thông, sau này
tuy không làm vua nhưng làm thầy mấy ông vua và là chiến lược gia
chỉ đạo cho dân tộc : Bắc hòa, Nam tiến.
THIẾU THỜI

Thuở nhỏ học ở quê nhà, cha từng sung chức Thái học sinh, mẹ lầu thông kinh sử, lý số, chắc hẳn ông đã đã được rèn luyện kỹ lưỡng. Khi lớn lên, ông vào Thanh Hóa ( cách Cổ Am độ 150 cây số ) học Bảng nhãn Lương Đắc Bằng, nguyên Lại Bộ Thượng Thư. Trước khi chết ông thầy họ Lương truyền lại cho người môn sinh đầy năng khiếu lý số cuốn Thái Ất Thần Kinh là một cuốn sách lý giải Kinh Dịch của Dương Hùng đời Hán, cuốn sách hiếm này khi đi sứ Tầu, Lương Đắc Bằng đã tìm được.
Nguyễn Bỉnh Khiêm tuy học giỏi nổi tiếng trong giới nho lâm nhưng
ông đã bỏ không dự khoa thi 1523 và 1526 vì vào thời hỗn loạn cuối
triều Lê, bỏ khoa đầu tiên của nhà Mạc vì thiên hạ còn chưa phục
tùng, mãi tới năm 1534-35, đời vua Mạc Đăng Doanh thịnh trị vương
đạo nhất triều Mạc, ông mới dự thi và đậu Trạng Nguyên. Năm ấy
ông đã 44 tuổi.
THỜI XUẤT CHÍNH : KHÔNG PHẢI 8 NĂM MÀ 30 NĂM !
Đỗ đầu thi hương, thi hội, thi đình, Tam nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm được bổ nhiệm Đông Các hiệu thư ( sửa chữa văn thư ), sau thăng Tả
Thị Lang Bộ Hình, Bộ Lại, kiêm Đông Các Đại Học Sĩ ( Tam phẩm ).
Trong 8 năm tại triều ( 1535-1542 ) ông từng dâng sớ xin chém 18
lộng thần. Năm 51 tuổi đời vua Mạc Phúc Hải, ông cáo quan về quê.
Ít năm sau triều đình lại vời ông ra làm Thượng Thư Bộ Lại, Thái Phó, phò giúp vua nhỏ Mạc Phúc Nguyên ( 1546-61 ), cùng với Mạc Kính Điển là chú vua và là cột trụ chống đỡ nhà Mạc.
Trong khoảng 55 tới 73 tuổi, Nguyễn Bỉnh Khiêm tuy không ở hẳn
kinh đô Thăng Long, nhưng vẫn cáng đáng nhiều việc triều chính, lúc bàn quốc sự, lúc đi đánh giặc, nhà Mạc tôn kính ông như quân sư, phong ông làm Trình Tuyền Hầu ( vì thế dân gian mới gọi là Trạng Trình ). Mãi tới ngoài 70 tuổi ông mới hoàn toàn quy ẩn nơi quê nhà.
THỜI QUY ẨN VÀ TRIẾT LÝ SÁNG TẠO " TRUNG TÂN "
Ông về quê năm 1563, sống đời tiên thoát tục trong Am Bạch Vân, bắc cầu Trường Xuân, Nghênh Phong, làm nơi nhàn tản nhìn trăng hóng mát. Ông lại khuyên dân làng trồng cây bờ đê để lấy bóng dâm, mở chợ làm nơi buôn bán, tu sửa đình chùa... Ông cùng học trò dựng quán Trung Tân nơi bến Tuyết giang, cho khắc văn khuyến Thiện trên bia đá, bài bia này nói lên triết lý tư tưởng cao siêu của Trạng Trình :
"... Toàn kỳ thiện giả vi trung, bất toàn kỳ thiện giả tắc phi trung
dã... Tân giả tân dã, tri sở chỉ vi yếu tân, bất tri sở chỉ tắc mê tân
dã... Trung chi sở tại, tức chí thiện chi sở tại... "
nghĩa là : " vẹn toàn điều Thiện là Trung, không vẹn toàn điều
Thiện thì không phải là Trung... Tân là cái bến, biết chỗ dừng lại là
bến chính, không biết chỗ dừng lại là bến mê ... Nghĩa chữ Trung
chính là ở chỗ Chí Thiện... "
Có lẽ trong nghìn năm Nho học mới thấy một nhà Nho giải nghĩa chữ
Trung Dung một cách giản dị, đầy đủ và sáng tạo như vậy. Cốt tủy
của Trung phải là Thiện, không có lòng Thiện thì biết đâu là chỗ
Trung, chỗ đúng tiết, chỗ " juste milieu " mà dừng laiï ! Tâm bất chính thì lạc vào bến mê, tâm giác ngộ thì biết bờ bến để neo thuyền, tư tưởng này phảng phất tư tưởng " Đáo bỉ ngạn " tức tới được bến của nhà Phật. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nối Nho vào Phật Lão, mang lại cho nhà Mạc cái vinh dự tiếp tục tư tưởng Tam Giáo Đồng Tôn mà nhà Lê độc tôn Tống Nho đã đánh mất, và đánh mất nặng nề truyền thống dân bản khai phóng của Lạc Việt.
Ở tuổi thất thập cổ lai hy, Trạng Trình có phong thái của một Lã Vọng Khương Tử Nha ngồi câu bên bờ sông Vỵ, một Gia Cát Lượng nằm ngâm thơ chân núi Ngọa Long :
Ngư ông bất ngộ Đào nguyên khách
khởi thức hưng vong thế cổ kim !
Tương truyền cụ Trạng thường cùng các nhà sư già đi thăm các nơi
danh lam thắng cảnh, nay Yên Tử, Đồ Sơn, mai Ngọa Vân, Kim Hải...học trò trước sau đông tới ba nghìn người. Cụ có ba phu nhân , 7 trai và 5 gái.
Năm 1585 tuổi già lâm bệnh, biết mình khó qua, cụ Trạng 95 tuổi
còn dâng sớ xin vua " ... thần tính độ số thấy vận nước nhà đã suy,
vận nhà Lê đến hồi tái tạo, ý trời đã định, sức người khó theo. Song
nhân giả có thể hồi thiên ý, xin nhà vua hết lòng tu nhân phát chính, lấy dân làm gốc, lấy nước làm trọng, trong sửa sang văn trị, ngoài chuyên cần võ công, may ra giữ được cơ nghiệp tổ tiên, thì thần chết cũng được thỏa lòng ". Nhà Mạc cử cột trụ Triều đình là hoàng thân Khiêm Vương Mạc Kính Điển cùng các quan về tế lễ, sai lập đền thờ, cấp ruộng tự điền trăm mẫu, vua Mạc Mậu Hợp lại đích thân viết chữ đề lên đền thờ : " Mạc Triều Trạng Nguyên Tể Tướng Từ ". Bảy năm sau khi Trạng Trình mất, 1592, nhà Mạc cũng mất theo, tuy còn giữ đất Cao Bằng thêm được 4 đời nữa.
Xem thế Trạng Trình đã dốc lòng phò Mạc và nhà Mạc cũng hết mực cung kính cây cổ thụ che chở triều đại suốt 60 năm.
Một trăm năm sáu năm sau, 1741, Tiến sĩ Vũ Khâm Lân nhân đi đánh
giặc và đắp đê tới thăm đền thờ Trạng Trình, viết tựa cho tập gia phả của họ Nguyễn Bỉnh vào đời thứ tám ( ngã bát thế chi hậu, binh qua khởi trùng trùng ! ) đã xúc động mô tả kiểu đất " Nghiễn trì thủy ảnh ", tức mặt hồ nghiên, ánh nước long lanh, là đất phát sinh bậc đại nhân, đầm nước sâu hơn một trượng, bốn năm vụng đất trên khoảng vài trăm mẫu, chỗ thắt chỗ phình, khi lặng bóng, khi nắng vàng tỏa ánh.
ĐẠO HỌC CỦA BẬC QUÂN SƯ : MÔN PHÁI BẠCH VÂN AM VỚI
QUYẾT SÁCH TAM PHÂN THIÊN HẠ
Từ cổ xưa, trước khi rơi vào cái học Tống Nho khoa cử độc tôn, tầm chương trích cú, người trí thức theo Đạo học, học để hành, hành tàng theo đạo. Đạo học là Đại học, quan để quán, bao quát mà vẫn qui về một mối ( Uni- versity ). Trạng Trình và các môn đệ của ông như Trạng Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Dữ ( tác giả Truyền Kỳ Mạn Lục ), Nguyễn Quyện ( danh tướng nhà Mạc ), Trương Thời Cử, Trạng Giáp Hải, Lương Hữu Khánh... tập hợp thành một môn phái Đạo học, Đại học chi đạo, tiếp nối truyền thống Lý, Trần, học cả Nho lẫn Phật, Lão, cả Tứ Thư Ngũ Kinh lẫn các môn lý học, huyền học, binh thư, phong thủy địa lý... Trạng Trình phân phối môn đệ thân hữu đi mọi hướng đất nước : Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh... vào với nhà Lê trung hưng ở Thanh Hóa, Nguyễn Đình Thân, người cùng quê Hải Dương, đi với Nguyễn Hoàng vào Hoành Sơn, Trạng Giáp Hải, Nguyễn Quyện và chính mình phò Mạc tại quốc đô Thăng Long cho tới gần hết thế kỷ XVI.
Sở học của Trạng Trình có lẽ được chính bà mẹ nuôi dưỡng uốn nắn
từ nhỏ : học để làm vua, không làm vua thì cũng làm thầy vua, đấy là truyền thống " đế vương chi học " cao siêu của của bậc đại nhân :
Cao khiết thùy vi thiên hạ sĩ
du nhàn ngã thị địa trung tiên
mà muốn vậy thì trên phải thông thiên văn, dưới phải rành địa lý,
mưa gió nắng bão phải biết trước như Gia Cát , Trương Lương, chiến
lược chiến thuật đều tinh thông nên có thể xếp đặt thiên hạ như bàn cờ , nhà Mạc một phần, Lê Trịnh một miếng, họ Nguyễn một
phương...thế Tam quốc này chính Trạng Trình và môn đệ phân định
thi hành, mặc dầu Trạng Trình cũng như Gia Cát, biết là mình đang
cố lấy nhân lực để cưỡng mệnh trời, thế loạn mà muốn trị cũng giống như " con ngao to đội núi đỡ trời cao " . Cho nên dù có than :
Cổ lai nhân nghĩa tri vô địch
hà tất khu khu sự chiến tranh
dịch :
nhân nghĩa xưa nay là vô địch
sao vẫn khư khư việc chiến tranh
vẫn phải cáng đáng thiên mệnh, tận kỳ tính, lo toan chuyện dân
chuyện nước.

Từ Bạch Vân Am Trạng Trình dùng cái nhìn chiến lược và phong thủy để mở ra mặt trận Nam phương cho Nguyễn Hoàng : vừa thực hiện việc mở rộng bờ cõi, vừa lấy thế hiểm mà dung thân, ông thôi thúc Phùng Khắc Khoan vào Thanh Hóa với nhà Lê vì sau này, 1598, chính họ Phùng đi sứ sang Tầu đã dàn xếp chấp nhận để yên cho họ Mạc ở đất Cao Bằng. Chính Trạng Bùng là người theo chí thầy viết tập Sấm Văn và tập Chu Dịch Quốc Âm Ca Quyết , việc ông hai lần gặp Liễu Hạnh Thánh Mẫu hiển linh, lần đầu ở Lạng Sơn, lần sau ở Tây Hồ, là một khúc mắc lớn. Có thể chính hai thầy trò, đều tinh thông lý số , đều viết Sấm, đã nhân chuyện linh thiêng mà dựng nên một tín ngưỡng bình dân, lấy hình ảnh một bà Mẹ dân tộc làm mái che bên cạnh Phật, Lão, đang bị Nho đè xuống ?
Dù sao, không thể phủ nhận khả năng thần toán của Trạng Trình mà
sứ nhà Thanh Chu Xán sau này phải nhận là " An Nam lý số hữu
Trình Tuyền ". Rõ ràng nhất là bài văn tế của Tiến sĩ Đinh Thời
Trung khóc thầy và xác định tài lý số của thầy :
Một kinh Thái Ất thuộc lòng
Đốt lửa soi gan Dương Tử
... Một mình lý học tinh thông
Hai nước anh hùng không đối thủ...
Đạo thống Thánh nhân tự tiên sinh mà truyền ra
Bờ cõi Thánh nhân duy tiên sinh là thấu đáo
....Đuốc ngọc chưa tàn ba ngọn
Văn viết đã xong...
Như vậy quả có Thái Ất, Thái Huyền của Dương Hùng làm luận giải
cho Kinh Dịch và quả có chuyện thầy trò từng ngồi đoán số gieo quẻ với nhau. Bên cạnh những lời cố vấn như Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân cho Nguyễn Hoàng, Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản và
Năm nay mất mùa, thóc giống không tốt, nên tìm giống cũ mà gieo
mạ, cho Trịnh Kiểm tiếp tục phò Lê, hay dặn dò Cao Bằng tuy thiểu,
khả diên sổ thế ( đất Cao Bằng tuy nhỏ nhưng cũng ở được mấy đời ) cho con cháu nhà Mạc, thơ văn Trạng Trình cũng xác nhận lý số sấm ký là một khía cạnh trong Đạo học của Trạng :
Thái cực nhất chu đàm luận liễu
Tri ngô thấu đắc Dịch chi thâm
Dịch :
Thái cực một vòng đàm luận suốt
Biết tôi Dịch lý thấu thâm sâu
Quẻ Phục " thiên địa chi tâm " trong kinh Dịch được nhắc tới nhiều
lần :
Bác vãng tĩnh quan tri tất Phục
Nhất dương dĩ nghiệm Địa Lôi trung
Dịch :
Quẻ Bác qua, lặng yên xem Phục đến
Một Dương nghiệm thấy giữa Địa Lôi
( Quẻ Phục sau quẻ Bác, gồm Khôn trên và Chấn dưới, năm hào Âm
đè ở trên, một hào Dương bắt đầu mọc ở dưới để Phục lên, vạn vật
suy mãi cũng phải nẩy ra thịnh, đen mãi cũng có hồi đỏ, ánh sáng ở
cuối đường hầm, đó là tâm của trời đất không nỡ để cái gì suy mãi ).
Hay câu :
Tĩnh quan vạn vật sinh sinh ý
Ưng kiến vô cùng thiên hạ tâm
Dịch :
Lặng xem vạn vật sinh thông
Thấy lòng trời đất mênh mông vô cùng
Khi ra làm quan, ông đã biết trước :
Quý thế khí tài tuy tạm xuất
Hưng vương lương tá dĩ tiền tri
Dịch :
Thế cuối tài hèn tuy tạm xuất
Vua lên tôi giỏi biết trước ra
Nhất là hai câu thơ sau đây :
Từ thuở hai dê sinh đặt ra
Than ôi tuổi tác kẻ ban già
nói về năm Ất Mùi ( Ất là can thứ hai, dê là năm Mùi ) đậu Trạng
Nguyên khi đã 44 tuổi ( 1535 đời minh quân Mạc Đăng Doanh ), rất
giống ngôn từ dùng trong Sấm ký. Mãi tới cuối thế kỷ XVIII, đời Tây
Sơn, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiệp ( 1723-1804 ) còn lặn lội ra thăm
đền thờ Trạng Trình và viết trong Thi Cảo là cụ Trạng đã " Phiến ngụ toàn tam tính " tức khuyên lời ngụ ý bóng gió để ba họ được an toàn.
Một vài chuyện sau đây có thể xác tín vì đã được ghi lại trong trong
gia phả, trong Công Dư Tiệp Ký, hoặc truyền khẩu từ xưa :
Quẻ " Thiết Đoản Mộc Trường " ( Sắt ngắn gỗ dài )
Một ngày cuối năm ba mươi Tết, cụ Trạng và một người học trò từ xa đến lễ thầy, hai thầy trò đang ngồi đàm luận thì có người gõ cổng xin vào. Cụ sai gia nhân ra nói hãy chờ một chút, trong lúc đó cụ và người học trò cùng bấm quẻ xem người gõ cổng đêm ba mươi Tết có chuyện gì. Hai thầy trò cùng bấm được quẻ " Thiết đoản mộc trường", tức ứng
vào vật sắt ngắn gỗ dài, cụ hỏi :
- Anh đoán xem là người gõ cổng có việc gì ?
Người học trò trả lời :
- Thưa thầy, sắt ngắn gỗ dài thì chỉ có cái mai, chắc có người vào
mượn cái mai đào đất.
Cụ nói :
- Tôi đoán khác anh một chút, người gõ cổng đến mượn búa chứ
không phải mượn mai.
Khi mở cổng cho người hàng xóm vào thì đúng là vào mượn búa chứ
không phải mượn mai mượn xẻng.
Cụ giải thích cho trò :
- Anh bấm quẻ đã đúng nhưng luận chưa cao. Đêm ba mươi Tết đến
mượn búa để bổ củi nấu bánh chưng chứ giờ này ai còn đến mượn
mai đào đất !
Vớt xác được phú quí
Bùi Sinh là người học trò nghèo trong làng, Trạng Trình đoán sau này sẽ được phú quí. Mãi tới tuổi 70 Bùi sinh vẫn không giầu không sang, bèn đến hỏi lại thầy mình. Cụ Trạng cười không nói gì, rồi bỗng nhiên một hôm cụ gọi Bùi Sinh lại bảo rằng : " Hãy mang thuyền đánh cá ra cửa bể Vạn Ninh, tới giờ ấy...hễ thấy gì trôi trên nước cũng vớt lên, sẽ được trọng thưởng ". Bùi sinh nghe lời ra bến Hồng Đàm ngồi đợi, quả nhiên một hồi giông bão nổi lên rồi thấy một xác người dạt vào, nhìn kỹ là xác một người đàn bà ăn mặc quần áo Tầu gấm vóc sang trọng. Bùi sinh vớt lên, sau này mới biết là xác mẹ Tổng Đốc Quảng Đông đi chơi ngoài biển bị bão bạt sang phương
Nam. Viên Tổng Đốc Quảng Đông cho người tìm về hướng biển
Nam, khi tìm thấy liền trọng thưởng Bùi sinh rất hậu, rồi Bùi sinh lại
được nhà Mạc phong quan tước vì hành vi ngoại giao tốt đẹp !
( Có chỗ thuật hơi khác là bà mẹ Tổng Đốc hãy còn sống, Bùi sinh
cứu lên và nuôi dưỡng cho tới khi người Tầu sang đón về, có chỗ
lại nói là vớt lên xác một công chúa Tầu... ).
Những giai thoại khác như " Minh Mệnh Thập Tứ, Thằng Trứ phá
đền " hoặc " Cha con thằng Khả đánh ngã bia tao ", hoặc lấy số Tử Vi cho cái quạt...có thể do người sau thêu dệt, không có có giá trị tiên tri sấm ký.
Bài Sấm đích thực là Sấm Trạng Trình

Một ngày thu năm Nhâm Dần ( 1542 ) đang tựa án đọc sách, chợt
thấy mây ngũ sắc hiện ra, Trạng liền gieo quẻ bói xem thời vận nước
nhà, lúc ấy đời vua thịnh trị nhất triều Mạc là Mạc Đăng Doanh mới
mất, Trạng bốc được quẻ Càn, động hào Sơ cửu, liền đoán :
Liên Mậu, Kỷ, Canh, Tân
can qua sinh sác biến
nghĩa là loạn liên tiếp vào năm Mậu Thân, Kỷ Dậu, Canh Tuất, Tân
Hợi ( 1548-49-50-51 ), rồi cụ lại giảng tiếp cho học trò là Trương
Thời Cử rằng :
Bốc đắc Càn thuần quái
Sơ cửu thoái tiềm long
Ngã bát thế chi hậu
Binh qua khởi trùng trùng
Ngưu tinh tụ Bảo giang
Đại nhân cư chính trung
Dịch nghĩa :
Bói được quẻ thuần Càn
Hào sơ cửu rồng lui ẩn
Tám đời sau ta
Binh biến khởi trùng trùng
Sao Ngưu tụ Sông Quí
Đại nhân ở chính giữa
( Có bản chép câu 5 là : Tinh tụ Bảo giang thượng nghĩa là Sao tụ
trên Sông Quí ).
Bài này chính là chìa khóa để mở mật ngữ và ẩn nghĩa trong toàn bộ
Sấm Trạng Trình, một bài Sấm không ai phủ nhận được giá trị chân
xác may mắn được truyền lại, trong khi tập Sấm đã bị tam sao thất
bản, thêu dệt thêm bớt qua 500 năm.
Bói được quẻ Càn ( Trời ), thấy rồng lui ẩn, hồng vận chân chúa chưa
xuất hiện, tám đời sau, khoảng 1735 khi Tiến sĩ Vũ Khâm Lân tới
thăm hậu duệ đời thứ 7 và thứ 8 của Trạng Trình tại chính nền nhà
xưa, đúng là thời loạn liên tiếp giữa các phe Trịnh, Nguyễn, Tây
Sơn...Cho tới triều Nguyễn Gia Long cũng chỉ được hơn 60 năm lại bị
Thực dân xâm lăng, mà trong 60 năm đó, loạn lạc vẫn liên miên tại
miền Bắc bộ ( riêng hai đời Minh Mệnh, Thiệu Trị 1820-1847 đã có
tới 250 vụ loạn ) , cho tới thập niên 1980 mới tạm gọi là yên ổn. Phải
đợi tới khi sao Ngưu, chủ tinh của bậc đại nhân xuất hiện trên Bảo
giang thì đất nước mới lại phục hưng, đại hồng vận non sông mới rực
rỡ.
Bài Sấm trên cho thấy Trạng Trình đã dùng tới Dịch lý và phải cộng
thêm với Chiêm tinh ( Thái Ất, Thái Huyền ? ) mới tính ra được thời "
sao tụ " trên Bảo giang và " tám đời sau binh qua ", mà một quẻ Dịch
thường không " động " cho một quãng thời gian dài cả 500 năm như
vậy.
Thái Ất, Thái Huyền hay là Chiêm Tinh Tuyết Sơn Hy Mã ?
Trạng Trình đã viết Sấm, không nghi ngờ gì nữa, nhưng viết Sấm
bằng nguồn gốc lý số nào, đấy còn là một nghi vấn .
Lý số học Đông phương phần lớn dựa trên Kinh Dịch, từ Âm Dương
Ngũ Hành, tới Bát quái, 64 quẻ...theo đó mà luận, từ Nho, Y, Lý, Số,
cho tới làm lịch... đều không ra ngoài Dịch lý. Muốn kỹ càng chi tiết
hơn, với các công thức áp dụng cho tiện việc tính toán ( ví lý số là
một môn Toán học Thiên văn ), phải dùng thêm các sách luận giải về
Kinh Dịch, trong đó Thái Ất Thần Kinh là một.
Nguyên Thái Ất Thần Kinh còn gọi là Thái Ất Kim Tiền là một tập
sách có từ đời Đường ( tk VI-VIII có thể là sách Thái Ất Kim Kính
Thức Kinh của Vương Hy Minh ) rất cao siêu nên được gọi là Kinh,
mà Kinh này cũng lại bắt nguồn từ sách Thái Ất từ đời Chiến Quốc
( 481-249 trước Dương lịch ). Thái Ất là tên một vì sao lớn, có chu kỳ
40 năm một vòng, đi qua đâu thì giáng an lành mưa thuận gió hòa,
có người cho là thuộc bộ Càn tức là sao Bắc thần hay Bắc đẩu, cũng
có thể là sao Thái Tuế theo khoa Tử Vi.
Một học giả đời Minh là Viên Đàm lại cho rằng sách Thái Ất Thần
Kinh chính là sách Thái Huyền của Dương Hùng đời Hán ( năm 53
tr.DL ). Dương Hùng tuy dựa theo Kinh Dịch mà viết ra Thái Huyền,
nhưng ông chi tiết hóa và công thức hóa thành một bộ sách áp dụng
vào lý số nên sau này các nhà thuật số đều lấy đó làm cứ điểm.
Dịch thì lấy Âm Dương làm gốc, Huyền thì lấy một, hai, ba, làm gốc
cho mọi biến hóa trong trời đất :
" Huyền có hai đạo, một là lấy 3 mà sinh, lấy 3 mà khởi là Phương,
Châu, Bộ, Gia ; lấy 3 mà sinh là chia khí Dương ra làm 3, chồng lên
3 lần, đến chín Doanh là cùng cực... " ( Nho Giáo- Trần Trọng Kim ).
Mỗi Gia lại biến ra 3 Thủ, mỗi Thủ lại có 9 Tán. Dịch thì có 6 hào
hợp thành 384 hào, Huyền thì có 9 Tán, hợp lại làm 729 Tán
( Phương 3 x Châu 3 x Bộ 3 x Gia 3 x Tán 9 = 729 ). Như thế Thủ
tương đương với Quẻ, Tán tương đương với Hào của Dịch. Áp dụng
vào lịch pháp thì lấy hai Tán làm một ngày, một Tán ngày, một Tán
đêm, cộng vào thành 364 ngày rưỡi ( 729 : 2 = 364.5 ), nên phải
thêm 2 Tán Cơ và Doanh vào cho thành 365 ngày 1/4.
Xem thế sách Thái Huyền là của đạo gia, dựa trên Đạo Đức Kinh,
nhất sinh nhị, nhị sinh tam mà diễn luận.
Sau Dịch, đến Huyền, tới thế kỷ XI đời Tống, lại thêm Thần của
Thiệu Ung ( 1011-1017 ) với sách Hoàng Cực Kinh Thế, luận cả về
Dịch lẫn Huyền. Thần giống như Đạo, là Thiên lý, là Tính, dẫu biến
dịch thế nào cũng vẫn không tiêu hoại ( tương tự như Phật tính ), nên
phải Phục tính để đạt tới Thần, Thần lan khắp vạn vật, mọi sinh linh
đều có trong bản chất. Thiệu Ung chia cuộc biến hóa của vũ trụ ra
làm Nguyên, Hội, Vận, Thế. Mỗi Nguyên là 129600 năm, gồm 12
Hội. Mỗi Hội có 10800 năm, gồm 30 Vận. Mỗi Vận có 360 năm,
gồm 12 Thế. Mỗi Thế là 30 năm ( một Thế hệ ).
Cuộc Thịnh, Suy, Tiêu, Trưởng cứ thế tuần hoàn, mỗi Hội ở một quẻ
Tý, Sửu... Trời sinh ở Hội Tý, Đất thành ở Hội Sửu ( Trâu cày ruộng ),
Người sinh ở Hội Dần ( mạnh mẽ như hổ )...Đời Nghiêu Thuấn là
cuối hội Tỵ ( dương trưởng âm tiêu ) nên cực thịnh, sang hội Ngọ,
dương tiêu âm trưởng không còn cực thịnh nữa, là hội thế gian hiện
tại, ta đang ở cuối hội Ngọ.
Xem thế Thiệu Ung nối kết Dịch với Đạo, với Phật ( lúc đó đạo Phật
đã rất thịnh ở bên Tầu ) và toán pháp hóa để tạo thành khoa lý số,
cùng với Chu Đôn Di và nhất là Trần Đoàn ( số Tử Vi ).
Trạng Trình, có bà mẹ rất giỏi về lý số, có thầy trao truyền sách Thái
Ất, tất phải tinh thông Dịch, Huyền và Thần. Đây là ba môn căn bản
lý số mà từ đời Lý, Trần, các nhà sư Mật tông như Định Không, Vạn
Hạnh có thể đã xử dụng để làm Sấm. Những sách này không phải bí
truyền mà vì cao siêu quá nên ít nho sinh chịu nghiên cứu, chỉ có một
số ít đầu óc thông minh, có năng khiếu thiên văn toán số, mới lĩnh
hội được. Cũng như bên Tây phương thế kỷ XVI-XVII những sách về
thiên văn vật lý của Kepler, Corpernic, Newton... rất ít người đọc và
rất ít người nắm vững.
Vấn đề ở đây là ngay những sách Thái Huyền, Hoàng Cực, Tử Vi...
đời Hán, đời Đường, đời Tống... đã chịu ảnh hưởng tới đâu của Mật
tông Phật giáo Tây Tạng và huyền học Vệ Đà Ấn Độ do con đường
Tơ Lụa ( Silk Road ) và đường biển phía Nam mang sang ? Nhìn bố
cục lá số Tử Vi của Trung Hoa giống như in lá số chiêm tinh của Nam
Ấn Độ, xem cách tiên tri của các nhà sư đời Đinh, Lê, Lý... không
những thấy dấu vết của Dịch lý mà còn thấy dùng phương thức khác
để đoán Tên người, đoán Nơi chốn, đoán Tinh đẩu hội tụ vào một
điểm chuẩn xác trong thời gian và không gian... những tính toán
chuẩn xác này vốn là ưu điểm của khoa chiêm tinh Ấn và khoa
chiêm tinh Tây phương ( xem phần Sấm Vạn Hạnh ). Có thể suy diễn
là Trạng Trình và các môn đệ tinh thông lý số của ông như Trương
Thời Cử, Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan... đã dùng các tài liệu của
Tầu và không thể không nghiên cứu các Sấm ký lưu truyền trong nhà
chùa. Ta thấy Trạng Trình rất thông đạo Phật, hay cùng các nhà sư
già đi thăm các nơi danh thắng nhất là vùng Yên Tử trung tâm Thiền
phái đời Trần, lại thêm có gạch nối rõ ràng giữa Sấm Vạn Hạnh và
Sấm Trạng Trình về điểm Thánh Xuất với " Lý đi rồi Lý lại về ", và
Trạng Bùng quê quán Sơn Tây hẳn không thể không quan tâm tới "
núi Tản sông Đà " là những địa danh được nhắc tới nhiều lần trong
tập Sấm.


Sấm Trạng Trình như một sứ điệp lịch sử

Sấm Trạng Trình đầu tiên chắc được giữ kín đáo trong một nhóm môn
đệ thân cận như Phùng Khắc Khoan, Trương Thời Cử, Nguyễn Dữ...,
với số môn đệ đào tạo trong hơn 50 năm, lên tới 3000 người, thơ văn
sấm ký của ông thầy hẳn đã được sao chép hoặc ít ra cũng được
truyền khẩu, chưa kể cả vua, quan và quần chúng đều đã biết rất
nhiều về tài tiên tri của Trạng. Tập Sấm đã đi vào mọi giới và mọi
nơi, kể cả vào Thuận Quảng với nhóm di dân mang theo cẩm nang "
Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân " và có thể có cả người của
Trạng Trình gửi theo lớp viễn chinh ấy.
Có thể đặt giả thuyết là Trạng Trình chỉ bốc quẻ, giảng truyền cho
môn đệ chứ không viết xuống thành tập. Bài Sấm giảng cho Trương
Thời Cử kể trên là một thí dụ điển hình. Sau đó các cao đồ mới sao
chép lại thành tập, đặt ra thành lời thơ năm, sáu chữ... rồi lưu truyền.
Tập Sấm Văn và Chu Dịch Quốc Âm Ca Quyết của Phùng Khắc
Khoan cần phải được tìm kiếm và nghiên cứu ( nếu còn lưu truyền ),
hai thầy trò rất tương đắc đến độ có thuyết cho là hai anh em cùng
mẹ khác cha mặc dầu Phùng Khắc Khoan kém Trạng Trình tới 37
tuổi ! Có chuyện kể rằng Trịnh Kiểm cho người ra tận Hải Dương vấn
kế " Phục Lê diệt Mạc ", Cụ không trả lời chỉ sai người nhà vứt chiếc
chiếu ra sân. Sứ giả về Thanh Hóa kể lại, triều thần không ai hiểu ý,
chỉ có Phùng Khắc Khoan là hiểu ngay ý thầy : phải đánh mau như
cuốn chiếu ( Tịch quyển trường khu, theo binh pháp ).
Tám đời sau, Vũ Khâm Lân viết tựa cho Gia phả họ Nguyễn Bỉnh
không thấy nhắc tới tập Sấm Ký. Lý do là Sấm ký, lý số, vốn bị các
nhà Nho cho là " ngoại thư ", hơn nữa nhắc tới một ông Trạng quân
sư của nhà Mạc, bị nhà Lê gạt tên ra khỏi văn miếu, không phải là dễ
dàng ở thế kỷ XVIII dưới thời Lê-Trịnh, vì thế Vũ Khâm Lân mới phải
nhắc khéo là Trạng Trình tuy sinh trên đất Mạc nhưng cũng đã góp
công đào tạo rất nhiều nhân tài phục vụ cho nhà Lê như Trạng Bũng,
Lương Hữu Khánh... Nhưng không phải vì thế mà Sấm Trạng bị thất
truyền, mấy ngàn môn đệ đã reo rắc lời thầy khắp nơi, nó được kính
cẩn gìn giữ trên " bia miệng trơ trơ ", trong tâm não của giới nho lâm,
được phát triển và bàn bạc thêm theo đúng ý Mạc Triều Trạng
Nguyên Tể Tướng, một ngôi sao Bắc đẩu mà lịch sử Việt Nam tới nay
cũng chỉ có một.
Điều chắc chắn là Sấm Trạng Trình đã có ảnh hưởng sâu rộng trong
giới tranh bá đồ vương ngay từ thời thế kỷ XVII. Năm 1671, có đảng
Bạch Sỉ được thành lập để phò Lê diệt Trịnh, tên Bạch Sỉ lấy từ Sấm
Trạng Trình, chỉ danh bậc đại nhân sẽ xuất hiện. Đời Gia Long, đầu
thế kỷ XIX, Lê Duy Hoán khởi nghĩa ở Thanh Hóa, làm lá cờ thêu chữ
" Phá Điền ", lấy từ câu" Phá điền Thiên tử giáng trần " của Sấm
Trạng Trình, Lê Duy Hoán tuổi Thân, phá điền chiết tự có thể thành
chữ Thân ! Thời đầu thế kỷ XX, có nhóm thần Tản Viên ở miền Bắc
Việt !
Cho nên lời Sấm còn truyền tới ngày nay là lời Sấm truyền khẩu hoặc
sao chép từ giới sĩ tử học trò Trạng Trình, tới thế kỷ 18-19 có nhà nho
viết xuống thành tập, thành bài không nhất định, rồi lại dùng thơ lục
bát để diễn ý. bên cạnh những câu " chính truyền ", còn có các câu
sấm " diễn nghĩa ", rồi tất nhiên xen những câu giả mạo với dụng ý
tuyên truyền nhất là vào thế kỷ XX hiện tại.
Đọc Sấm Trạng Trình

Sấm cũng như Kinh, đòi hỏi người đọc một vài tiêu chuẩn tâm thức
giúp cho việc lĩnh hội. Người viết Sấm như Trạng Trình khi bốc quẻ
đã phải hết sức tập trung và thành tâm thì quẻ mới ứng, chưa kể kỹ
thuật tính toán suy diễn đòi hỏi rất nhiều tâm huyết.
Người viết Sấm thuộc loại Thánh nhân, người đọc Sấm cũng cần tĩnh
tâm để đốt lửa soi gan kim cổ. Phá chấp kiến, vượt ngã mạn, trực chỉ
nhân tâm mà kiến cái " Huyền " của lịch sử.
Sấm Trạng Trình luận giải về Lịch sử dân tộc 500 năm sau tức là vào
hiện đại. Nhìn dân tộc như một khối sinh động trôi trong thời gian,
thịnh suy theo chu kỳ tinh đẩu thiên địa nhân nhất thể, Trạng Trình
không phải chỉ đoán sự mà còn để cái tâm vào cuộc thăng trầm của
dân tộc mà ông suốt đời thao thức, tận tụy. Thế nên hậu thế đọc Sấm
chẳng những để tìm hiểu cái sự biến mà còn cảm thông cái sự tâm,
thì mới quán chiếu nổi phần nào nỗi lòng nặng chĩu của tiền nhân
truyền lại.
Trong tâm nguyện đó, chúng tôi luận giải lời Sấm sau đây, với chiếc
chìa khóa do cố bốc sư Ba La ( 1870 ? -1973 ) khẩu truyền để khai
mở những ẩn ngữ và mật ý.
Phần Sấm Chữ Nho

1- Mẫu thân tam thập lục tuế
hậu sinh thiên tử Bảo giang môn
Bậc thiên tử xuất ở Bảo giang, mẫu thân sinh ra ngài lúc 36 tuổi. Khi
sinh ra đã cách trở song thân. Câu sấm truyền khẩu khá phổ biến,
tương hợp với nhiều đoạn khác về địa danh Bảo giang, tức sông Đà
giang .Phần sấm chữ nôm cũng có câu tương tự :
Tiền sinh cha mẹ đà cách trở
hậu sinh thiên tử Bảo giang môn
2- Thiên sinh thiên tử ư hỏa thôn
một nhà họ Lý phúc sinh tôn
Trời sinh thiên tử ở hỏa thôn ( ? ), dòng dõi phúc đức con cháu nhà
Lý. Tên thôn làng thánh nhân trong có chữ hỏa ( hán tự) hoặc hỏa
cũng là phương Nam, tức Viêm bang chỉ nước Nam ta. Vua Tự Đức
sửa họ Lý thành họ Nguyễn vì là họ Triều Nguyễn Gia Long ( theo cụ
Ba La ). Triều Nguyễn rất hẹp hòi thiển cận như đặt ra lệ tam bất
( không phong chức Hoàng hậu,Tể Tướng,Trạng Nguyên ) vì sợ lạm
quyền . Suốt thời các vua Nguyễn, không một người nào ở đất Bắc
làm tới nhất phẩm tứ trụ, mặc dầu tổ tiên họ Nguyễn vốn xuất từ
miền Bắc ! Nạn kỳ thị địa phương này kéo dài tới thời Bảo Đại mới
tạm dứt. Các nhà phong thủy bàn rằng từ thế kỷ 16 tới 20, các long
mạch đi vào phương Nam đất cũ của Chiêm Thành, Chân Lạp vong
quốc, ma khí nặng nề, nên dân tộc chịu nhiều khổ ách tai ương.
3- Dục thức thánh nhân hương
quá cầu cư Bắc phương
danh vi Nguyễn gia tử
kim tịch sinh Ngưu lang.
Muốn biết hương quán thánh nhân, hãy qua cầu về phương Bắc, con
cháu họ Nguyễn ( Lý ), ánh sáng vàng sinh Ngưu lang.
Họ Lý sau khi bị Trần Thủ Độ " nhổ cỏ phải nhổ cho tận gốc
" ( 1225 ), đã phải trốn tránh, có hoàng thân vượt biển trốn sang Cao
Ly như Hoàng tử Lý Long Tường, những người còn lại phải cải sang
họ Nguyễn như Tiến sĩ Nguyễn Tư Giản ( 1823-1890 ), nhà văn
Nguyễn Triệu Luật thời tiền chiến là dòng dõi hoàng tộc nhà Lý, hoặc
bị truy nã phải dấu họ đổi tên ra họ Bàng như tổ tiên thi sĩ Bàng Bá
Lân...Kim tịch có thể chỉ hướng Tây , và Ngưu có thể là ngôi sao bản
mệnh của thánh nhân.
Có bản chép : Danh vi Nguyễn gia tử tinh bản tại Ngưu lang
cùng nghĩa với câu trên, tinh bản càng rõ ý sao Ngưu bản mệnh.
4- Thủy trung tàng bảo cái
hứa cập thánh nhân hương
mộc hạ châm châm khẩu
danh thế xuất nan lường
Giữa có nước tàng lọng quí, mới tới được quê hương thánh nhân.Tên
thánh nhân " mộc hạ châm châm khẩu " là lối chiết tự của cổ nhân,
chữ châm gồm chữ kim và chữ thập Kim chỉ phương Tây ( Đoài
phương phúc địa giáng linh ...), thập chỉ danh " có thầy Nhân Thập
đi về " . Nhân Thập là thánh Tản, năm chữ nhân và một chữ thập
thành chữ Tản. Ba chữ mộc, hạ, khẩu, không chiết tự được vào nghĩa
nào, cụ Ba La chỉ cho biết tên nhưng không giải thích thêm . Chữ
khẩu và chữ thập có thể thành chữ điền trong câu " phá điền thiên
tử giáng trần ".
Bảo cái là lọng quí tức núi Tản hình cái lọng ( Tản Viên ), thủy trung
có thể là núi Tản bên bờ sông Đà giang, hoặc đỉnh non Tản có ao
nước ( nay chỉ còn ao nhỏ róc rách nước từ vách núi chẩy xuống ).
Nghĩa sau hợp lý hơn. Thánh nhân xuất thật khó lường ( nan lường ).
Có bản chép về đoạn này như sau :
Dục thức thánh nhân hương
quá kiều cư Bắc phương
dục thức thánh nhân danh
mộc hạ châm châm khẩu
cũng không khác nhau về ý nghĩa.
5- Bảo giang Thiên tử xuất
bất chiến tự nhiên thành
phân phân tùng bách khởi
nhiễu nhiễu xuất Đông chinh
Thiên tử xuất ở sông quí, không cần chiến chinh cũng thành công,
bậc quân tử khởi nghiệp ( tùng bách cây cao bóng cả chỉ bậc thánh
nhân quân tử ) xuất phát về hướng Đông mà chinh phục lòng người.
Bảo giang tức sông Đà, Sơn Tây, từ Tây sang Đông là hướng quần
tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người.
Trạng Trình là bậc Trạng Nguyên, không mơ hồ Đông Tây Nam Bắc,
cụ ngồi ở Bạch Vân Am ( Hải Dương, Hải Phòng bây giờ ) nhìn về
Tây là núi Tản, hoặc lấy cứ điểm là kinh thành Thăng Long để định
hướng cũng vậy. Không thể nói phương Tây là miền Tây Nam Phần
Việt Nam được.
Có bản chép : phân phân tòng bắc khởi không hợp nghĩa. Hai câu
đầu người Việt Nam không mấy ai không thuộc lòng , sấm Trạng
Trình có thể gọi là cuốn Sách Ước của dân tộc, ăn sâu vào tàng thức
mọi người.
6- Bảo sơn thiên tử xuất
bất chiến tự nhiên thành
lê dân đào bão noãn
tứ hải lạc âu ca
Thiên tử xuất từ núi quí, không dùng binh vẫn đạt thành, dân đen đều
vui mừng no ấm ( bão bộ thực mới có nghĩa no ấm, bộ thủ nghĩa là
ôm ấp, không thích hợp ) , bốn biển an lạc thanh bình.
Bảo sơn, Bảo giang là đất kết phát bậc thánh nhân. Núi Tản làm cái
án che độc khí phương Bắc cho thành Đại La ( Thăng Long sau này ),
là đầu rồng long mạnh tụ hội, đột ngột nổi cao 1300 mét trên đồng
bằng. Sông Đà là tay hổ hùng mạnh đổ từ vùng Vân Nam xuống cùng
đại thế Hy Mã Tây Tạng truyền về nước Việt. Cụ Ba La cho rằng bậc
thánh nhân này có thể thống lĩnh cả Trung Hoa, ít nhất là phần đất
cổ xưa của Bách Việt. Như thế mới hết nghĩa của chữ tứ hải.
Xét theo đại thế phong thủy, Trung Hoa có núi cao sông dài hơn nước
Việt nhỏ bé, nên Trung Hoa ở thế đại cường thiên hạ. Tuy vậy long
mạch Dương Tử Giang đang bị cắt phá vì công trình xây cất đập
nước, con rồng lớn Trung Hoa trong thiên kỷ tới có thể vì thế yếu đi,
sẽ bị đại địa kết phát Bảo sơn Bảo giang khuynh loát. Lịch sử theo
luật tiến hóa thăng trầm, không nước nào mạnh mãi, không nước nào
yếu mãi. Long mạch cũng theo định luật đó, thời kết phát, thời suy
vong.
7- Mại dữ lê viên dưỡng
Khởi nguyệt bộ đại giang
hoặc kiều tam lộng ngạn
hoặc ngụ kim lăng cương
Xét đại ý thánh nhân khi chưa xuất hiện, sinh sống nơi vườn tược ( lê
viên dưỡng ), lúc vui với trăng nước bên sông , lúc hóng mát bên cầu,
bờ đê, lúc trú ngụ ở Kim lăng cương... Kim cương chỉ vùng núi phương
Tây.
Câu này được nhắc lại trong phần chữ nôm : Vua còn cuốc nguyệt
cầy mây...
8- Nhân nghĩa thùy vi địch
đạo đức thục dữ đương
tộ truyền nhị thập ngũ
vận khải ngũ diên trường
Nhân nghĩa đạo đức của thánh nhân không ai có thể đương đầu
chống lại, ngài ở ngôi thiên tử hai mươi lăm năm, để lại đại hồng vận
cho dân tộc năm trăm năm.
Hai triều đại vương đạo lâu dài nhất trong sử Việt là Lý và Trần cũng
chỉ trên dưới 200 năm. Thánh nhân khai sáng nghiệp 500 năm phải
được long mạch trường thế tương đương với họ Hồng Bàng. Thánh
Tản là con rể vua Hùng và đã làm vua một thời gian ngắn trước khi
họ Hùng chuyển sang họ Thục. Thánh nhân là hóa thân của thánh
Tản, lấy đức mà trị dân, đưa dân tộc trở lại vinh quang thịnh trị của
thời Hùng vương lập quốc.
9- Thiên dữ thần thực thụy
thụy trình ngũ sắc quang
kim kê khai lựu diệp
hoàng cái xuất quí phương
Trời đất thánh thần cùng báo điềm lành, mây ngũ sắc hiển hiện, gà
vàng mở lá lựu, lọng vua xuất hiện phương quí.
Ca dao có câu : Nhất cao là núi Tản viên
Núi thắt cổ bồng
mà lại có thánh sinh
hoặc đồng dao : Bổng bồng bông
núi thắt cổ bồng
mà có thánh sinh
Câu sấm này lại nhắc tới lọng vua ( hoàng cái ) tức Tản viên, ở quí
phương tức phương vàng ( kim ) là phương Tây. Trong chữ lựu có chữ
điền, khai lựu diệp cũng có nghĩa như phá điền thiên tử giáng trần,
cổ nhân muốn gợi ý thánh Tản xuất. Phá chữ điền lộ ra chữ thập , là
thấy danh " nhân thập " trong câu " có thầy nhân thập đi về, tả phù
hữu trì, cây cỏ làm binh ".
10- Quần gian đạo danh tự
bách tính khổ tai ương
ma vương sát đại quỷ
hoàng thiên tru ma vương
Bọn gian tà ăn trộm chữ nghĩa làm trăm họ khổ sở, ma vương giết đại
quỷ, nhưng trời cao sẽ tiêu diệt ma vương.
Câu đầu dường như ám chỉ bọn gian tà giả nhân giả nghĩa, bầy đặt ý
thức hệ , diễn trò điên đảo tưởng, miệng nói bình đẳng bác ái, lòng
lại tham tàn độc ác. Hai câu cuối rất phổ biến, nhiều người thuộc
lòng. Tuy vậy lời sấm ứng vào giai đoạn lịch sử nào thì không được
rõ, vì từ sau đời Trạng Trình, suốt 400 năm nhiễu nhương biến loạn
lầm than, lịch sử quay cuồng đủ mọi phường ma quỷ bá đạo, trăm họ
chỉ còn biết nhìn Trời cao mà cầu khẩn. 
Đây là một trong những đoạn sấm hay và có giá trị văn chương, chỉ
tiếc rằng không có liên hệ với câu khác để định thời điểm. Mới đọc
có cảm tưởng như một nhà nho nào đặt ra vào thời hiện đại, khoảng
1945-50, nhưng lời sấm này đã có chép trong bản 1930 của Sở
Cuồng ( Nam Ký thư xã -Hà Nội ) và bản Đại La ( 1948 ), vả lại hai
câu cuối truyền khẩu trong dân chúng từ nhiều thế hệ.
11- Bắc hữu kim thành tráng
Nam tạc ngọc bích thành
hỏa thôn đa khuyển phệ
mục dã dục nhân canh
Bắc có thành vàng tráng lệ, Nam tạc thành ngọc xanh, xóm lửa vang
chó sủa, mong người canh tác cánh đồng quê.
Đoạn này lại nhắc tới kim thành ( kim là phương Tây ) và hỏa thôn là
thôn làng thánh nhân ( thiên sinh thiên tử ư hỏa thôn ) .Có thể đoán
là năm Tuất ( khuyển )- 2006- thánh nhân xuất chăm sóc muôn dân,
ứng hợp với câu :
Canh Tân tàn phá
Tuất Hợi phục sinh
Canh Thìn , năm 2000, Tân Tỵ, 2001, là hai năm đại loạn thế giới
theo nhiều chiêm tinh gia Tây phương. Tuất , Hợi ( 2006-2007 ), thế
gian sẽ phục sinh an bình trở lại. Thánh nhân xuất vào năm Tuất để
phục hưng bốn phương cũng hợp với Quẻ Phục là quẻ Dịch mà Trạng
Trình thường nhắc tới trong Bạch Vân Thi Tập.
Hai câu : Bắc có kim thành, Nam tạc thành ngọc bích, không rõ
nghĩa. Có người gượng đoán là Nam, Bắc Việt đều có đất quí, thiết
tưởng là chủ quan thời đất nước chia hai.
Hai chữ hỏa và khuyển đều liên quan chiết tự với tên Thánh nhân.
12- Nam Việt hữu Ngưu tinh
quá thất thân thủy sinh
địa giới XỈ vị BẠCH
Thủy trầm nhĩ bất kinh
Nam Việt có sao Ngưu, quá thất thân mới sinh, địa giới răng chưa
trắng, nước chìm tai chẳng kinh.
Lại nhắc tới sao Ngưu chủ tinh của thánh nhân, quá thất thân : có thể
ám chỉ thời xuất thánh như câu " lục thất nguyệt gian " trong đoạn
sấm khác, hoặc nếu chữ thất là bảy thì tạm hiểu là ngoài bảy mươi
tuổi, hoặc là một cách tính độ sao Ngưu xuất lộ vào vận thất khai
( ? ).
Hai câu sau là câu đối : Địa giới đối với thủy trầm, xỉ đối với nhĩ, vị
bạch đối vói bất kinh. Ở đây đưa ra một tên khác của thánh Tản là
Bạch Sỉ, trong chữ Sỉ ( răng ) có 4 chữ nhân, ám chỉ Nhân Thập tức
thánh Tản, chữ Bạch ( trắng ) là ẩn ngữ chỉ danh. Trong bài thơ tiên
tri của chúa Liễu giáng cũng có câu : non xanh mà mọc trắng răng
cũng kỳ, đều hàm chứa tên thánh nhân. Cụ Ba La cho biết tên nhưng
không nói rõ cách chiết tự hoặc ghép chữ, chưa thấy ai tìm ra cách
cắt hoặc ghép đúng .
13- Phú quí hồng trần mộng
bần cùng bạch phát sinh
anh hùng vương kiếm kích
manh cổ đổ thái bình
Công danh phú quí như giấc mộng hồng trần, lúc bần cùng mới bạch
phát sinh ra, bậc quân vương anh hùng lập chiến công dựng nghiệp
lớn, kẻ mù lòa lại được thấy thái bình âu ca !
Bạch phát sinh là ba chữ chìa khóa trong đoạn này, chữ bạch nhắc
tới Bạch Sỉ, bạch phát hàm ý bạch ốc phát công danh. Bần cùng :
chú ý chữ cùng có bộ huyệt .
Đoạn này dùng ẩn ngữ với tứ thơ cao siêu, vừa nói lên thân thế thánh
nhân từ bạch ốc phát sinh, coi phú quí như giấc mộng, vừa dùng ảnh
tượng người mù thấy cảnh thanh bình, lại thêm vài nét chữ gợi danh
tính thiên tử. Quả là tuyệt bút !
14- Tại sơn vô hổ lang
Thất thập nhị hiền tướng
Phụ tá thánh quân vương
.......................................
Tỵ nhân vi tướng
Thìn Tuất vi quân sư
Vùng rừng núi Tản Viên ( Ba Vì ) đặc biệt không có hổ lang ác thú,
72 vị tôi hiền phò tá bậc thánh vương. Thất thập hàm ý rất nhiều
nhân tài có đức độ , là những phò tinh chung quanh sao Ngưu, chủ
tinh sáng láng của quẻ Phục Viêm Bang.
Thần núi Tản gọi là Trụ Quốc Đại Vương, đời vua Lý Nhân Tôn lập
đền thờ trên ngọn núi thứ nhất có 20 tầng tháp. Thần núi Tản rất linh
thiêng, Cao Biền phải sợ, ngay Chúa Trịnh Sâm ( 1767-82 ) đi dẹp
loạn miền Tây, muốn leo lên núi cũng không được, mưa gió hốt nhiên
nổi lên , quân sĩ lạc đường, không tìm ra lối trèo.
Hai câu cuối : người tuổi Tỵ làm tướng, người tuổi Thìn và Tuất làm
quân sư , không có trong nhiều bản in, chúng tôi ghi lại để tồn nghi.
15- Thượng đại nhân bất nhân
Thánh ất dĩ vong ân
Bạch hổ kim đái ấn
Thất thập cổ lai xuân
Bốn câu này không rõ nghĩa đen và nghĩa bóng. Chỉ có hai chữ gợi ý
là chữ bạch ( Bạch Sỉ ) và chữ kim ( phương Tây ). Thất thập cổ lai
xuân : phải chăng thánh xuất vào tuổi thất thập ?
16- Ký mã khu dương tẩu
phù kê thăng đại minh
trư thử giai phong khởi
Thìn Mão xuất thái bình
Nghĩa : Ngựa hay đuổi dê chạy, giúp gà lên sáng chói, bọn chuột heo
nổi như ong, Thìn Mão xuất thái bình.
Bàn : Nếu nói Mã là năm Ngọ, Dương là Mùi ( dê ), Kê là Dậu, rồi
Năm Thìn năm Mão... thì suốt 400 năm sau Trạng Trình biết bao
nhiêu năm Thìn năm Mão ! Bốn câu này nếu là Sấm Trạng thì ứng
vào khoảng thời gian gần đời Trạng Trình hoặc do người sau tùy cơ
tạo tác ra không rõ thời điểm.
Bốn câu rất phổ biến sau đây cũng rơi vào trường hợp mù mờ như
trên :
Long vĩ xà đầu khổ chiến tranh
can qua xứ xứ khởi đao binh
Mã đề dương cước, anh hùng tận
Thân Dậu niên gian kiến thái bình
Nghĩa : Đuôi rồng đầu rắn khổ chiến tranh, can qua xứ xứ khởi đao
binh, móng ngựa chân dê anh hùng hết, năm Thân năm Dậu thấy
thái bình.
Bàn : Dường như bốn câu này xuất hiện vào khoảng 1940-45 nói về
Đệ Nhị Thế Chiến, cuối Thìn 1940, đầu Rắn 1941 bắt đầu đại
chiến... năm Thân 1944, năm Dậu 1945 thấy thái bình ? Những câu
loại rồng rắn dê ngựa này được tung ra rất nhiều từ khoảng 1930 tới
nay, giống như một trò chơi chữ đánh vào ước vọng của quần chúng !
hoặc phản ảnh mặc cảm tự cao của người muốn làm bậc tiên tri
phán ra thánh ngôn nào đó ( complex of grandiosity ) ? Nếu là Sấm
Trạng Trình tất phải liên quan tới chủ đề và phải có mốc thời gian để
suy diễn.
Bốn câu sau đây cũng giống trường hợp trên, nhưng dụng ý tuyên
truyền rõ ràng hơn :
Cửu cửu càn khôn dĩ định
thanh minh thời tiết hoa tàn
trực đáo dương đầu mã vĩ
Hồ binh bát vạn nhập Trường An
Cuối Ngọ ( 1954 ? ), đầu Mùi ( 1955 ? ), tám vạn Hồ binh vào Thủ đô,
trời đất đã định chín chín, thời tiết thanh minh hoa tàn.
Cửu cửu mà giải là 81 hoặc 99 thì không thể đúng vì Sấm ký không
dựa trên dương lịch ! Nếu nói là bộ đội Việt Minh vào Hà Nội năm
1954 thì không vào tiết thanh minh và không có 80,000 quân !
17- Đoài phương phúc địa giáng linh
Cửu trùng thụy ứng long thành ngũ vân
Phá điền thiên tử giáng trần
Dũng sĩ nhược hải mưu thần như lâm
Bốn câu chữ nho làm theo thể lục bát này không phải là sấm Trạng
Trình vì thể thơ lục bát viết bằng chữ nho chỉ mới xuất hiện từ thế kỷ
XIX khi thơ nôm lục bát đã rất thịnh hành.
Tuy vậy nội dung lại rất sát với chủ ý của sấm Trạng Trình : Thánh
nhân xuất ở phương Tây ( Đoài phương ), chín tầng cao mây ngũ sắc
hiện điềm lành trên Long thành ( Thăng Long ? ), phá điền thiên tử
giáng trần, dũng sĩ phò tá như biển, mưu thần nhiều như rừng cây.
Đã bao bút mực đổ ra giải nghĩa chữ mật Phá Điền, nhiều người cho
là chữ điền với nét phá là chữ Thân , thiên tử xuất vào năm Thân !
Lối đoán không cơ sở này sai hoàn toàn và làm Sấm Trạng Trình mỗi
ngày một mù mờ thêm. Dựa vào ý chính chủ đề của Sấm Trạng là
thánh nhân xuất ở phương Tây, núi Tản, có thể diễn dịch chữ điền
phá ra bốn bờ ruộng thì lộ ra chữ thập, nhân thập là tên Thánh Tản,
xin xem phần giải ở trên.
Ngoài bốn câu vừa kể chắc do người sau thêm vào với thiện ý làm
sáng thêm ý nghĩa Sấm Trạng, còn một số câu lục bát khác, được
chép trong nhiều sách, nhưng nội dung không hợp với chủ ý Sấm
Trạng, và có nhiều phần do người sau tùy thời viết ra :
Càn khôn phú tải vô lường
Đào viên đỉnh phí quần dương tranh hùng
Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết
Đảo Hoành sơn tam liệt ngũ phân
Ta hồ vô phụ vô quân
Đào viên tán lạc ngô dân thủ thành
Nghĩa : Trời che đất chở khôn xiết kể, vườn Đào vạc sôi bầy dê tranh
hùng, nhị ngũ thư hùng chưa quyết định, vùng Hoành sơn chia ba xẻ
năm. Than ôi không cha không vua, Đào viên tán lạc dân ta thủ
thành.
Đoạn này có thể nói về cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn giữa
Trịnh, Nguyễn hoặc Tây Sơn- Nguyễn vào thế kỷ 17-18 xẩy ra quanh
vùng Hoành Sơn Thuận hóa ( Huế ).
Sáu câu lục bát sau đây rất đáng nghi ngờ, có thể được bịa đặt vào
thời 1945-1948 khi Thủ tướng Trần Trọng Kim từ chức và xuất
dương :
Trần công nãi thị phúc tâm
giang hồ xử sĩ Đào Tiềm xuất du
tướng thần hệ xuất Y Chu
thứ ky phục kiến Đường Ngu thi thành
hiệu xưng thiên hạ thái bình
Đông Tây vô sự Nam thành quốc gia.
Nghĩa : Trần công chính là người tâm phúc, giang hồ xuất du như xử
sĩ Đào Tiềm, trong đám quần thần nẩy ra người hiền như Y Doãn,
Chu Công, sau này lại được thấy cảnh thái bình như thời Đường
Nghiêu Ngu Thuấn.
Hai câu chót không ăn khớp với bốn câu trên vì Trần công là tướng
thần không lẽ xưng hiệu thái bình ? nước Nam đã là quốc gia cả
nghìn năm , không lẽ phải chờ Đông Tây vô sự mới thành một
nước ! Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm không thể viết những câu
như thế !
Ngoài ra một bài thơ chữ nho khác, được chép trong nhiều bản quốc
ngữ in sau năm 1945, không có trong bản 1930 của Sở Cuồng Lê Dư
và bản 1945 của nhà Đại La là bài sau đây :
Ô hô ! thế sự tự bình bồng
Nam, Bắc hà thời thiết lộ thông
Hồ ẩn sơn trung mao tận bạch
Kình cư hải ngoại huyết lưu hồng
Kê minh ngọc thụ thiên khuynh Bắc
Ngưu xuất Lam điền nhật chính Đông
Nhược đãi ưng lai sư tử thượng
Tứ phương thiên hạ thái bình phong
Bản dịch ra quốc văn của ông Ngư Phổ Giác :
Than ôi thế sự thật bình bồng
Nam, Bắc chừng nào thiết lộ thông
Hồ ẩn trong non, mao thẩy trắng
Kình ngoi ngoài biển huyết loang hồng
Gà kêu cây ngọc trời nghiêng Bắc
Trâu tới Lam điền nhật chính Đông
Tới lúc ưng về sư tử dậy
Thái bình mới tỏa khắp non sông.
Xem nội dung có thể thấy bài này được làm vào khoảng trước sau
1945, tác giả vô danh ( một nhà sư ? ) nói tới đường xe lửa ( thiết lộ )
Nam Bắc, tới tên Hồ và Mao, nhắc tới Gà ( năm Ất Dậu 1945 ? )...
Ba câu cuối vẫn dựa vào Sấm Trạng Trình : Trâu ( Ngưu tinh ) , Điền
( phá điền thiên tử giáng trần ), phải chờ tới bậc anh hùng ( chim
ưng, sư tử ) xuất hiện thì đất nước mới thật sự thái bình.


PHẦN SẤM CHỮ QUỐC NGỮ

Phần Sấm chữ quốc ngữ trong nhiều bản in dài khoảng 400 câu,
thường viết theo thể lục bát hoặc song thất lục bát, cũng có khi xen
thể ngũ ngôn, lục ngôn, thất ngôn.
Phần này có thể được phiên ra từ ba bản nôm của Trường Viễn Đông
Bác Cổ : Trình Tiên Sinh Quốc Ngữ, Trình Trạng Nguyên Sấm Ký
Diễn Ca, Trình Quốc Công Sấm.
Phần Sấm chữ quốc ngữ không có giá trị chân xác bằng Sấm chữ
Nho vì nhiều lý do :
- Thời Trạng Trình, thế kỷ XVI, chưa có thể thơ lục bát hoặc thể này
mới phôi thai trong giới bình dân. Hơn một trăm bài thơ Nôm của
Bạch Vân Thi Tập còn lại đều làm theo thể thất ngôn bát cú ( bẩy
chữ tám câu ) , thỉnh thoảng có bài sáu câu sáu chữ, không có bài
nào làm theo thể lục bát.
- Viết bằng chữ Nho tiện cho Sấm văn vì nhiều khi phải dùng tới ẩn
ngữ, chiết tự, kinh Dịch, tinh đẩu...vốn là ưu điểm diễn đạt hàm xúc
của Hán tự.
- Suốt 400 năm qua, thời Nho học, kẻ sĩ biết trọng chữ nghĩa của cổ
nhân, ít ai dám bôi bác tác phẩm của ngươì khác, lại càng không
dám mạo danh một vị danh nho như Trạng Trình để bịa đặt hoặc
thêm thắt. Vì thế phần Sấm chữ Nho tương đối giữ được nguyên tác,
trong khoảng 90-100 câu, chỉ độ 16-20 câu ( 20 % ) đáng nghi ngờ,
đa số các câu khác đều phản ảnh trung thực chủ đề của Sấm Trạng
Trình. Một vài sửa đổi của vua Tự Đức ( như đổi họ Lý ra họ Nguyễn )
rất vụng về không ăn khớp với câu khác và với đại thể, nên các nhà
Nho thời xưa đều phân biệt được.
- Từ 1930 tới nay, chữ quốc ngữ được xử dụng và thể lục bát rất phổ
biến, lại thêm nhiều phe phái tuyên truyền trong hai ba thế hệ tranh
chấp, nên phần Sấm quốc ngữ bị thêm thắt xuyên tạc, thay đổi,
nhiều khi trắng trợn và vô nghĩa.
Tuy vậy việc nhận ra nguyên bản không phải là không thể làm được.
Một khi đã đọc toàn phần Sấm chữ Nho, lấy được đại ý và tìm thấy
chủ đề, đọc sang phần chữ quốc ngữ sẽ phân định được ngay chính
giả.
Dựa vào tiêu chuẩn trên, xoay quanh chủ đề Thánh nhân xuất,
chúng tôi luận giải sau đây những câu Sấm đích thực hoặc những câu
do cổ nhân ( nhà Nho, nhà Sư...) viết thêm diễn nghĩa Sấm Trạng mà
không có tà tâm xuyên tạc. Việc ghi hết các câu Sấm ra đây không
cần thiết vì lẽ không có bản Sấm nào là chính bản, ngay cả những
bản đầu tiên ( 1930 ) cũng sai sót.
1- Xem ý trời có lòng khải thánh
đốc sinh hiền điều đỉnh hộ mai
chọn Đẩu, Thai, những vì sao cả
dùng ở tay phụ tá vương gia
Bắc phương chính khí sinh ra
có ông Bạch Sỉ điều hòa hôm mai
Đoạn này dùng khoa chiêm tinh , tính chu kỳ tinh đẩu để tìm ra thời
thánh xuất, sự tụ hội của các vì sao trên nền trời nước Việt, ở đây là
sao Ngưu ( chủ tinh, xem phần chữ Nho ) và sao Đẩu, sao Thai trên
phương Bắc vốn là phương chính khí theo Dịch lý. Danh hiệu Bạch Sỉ
của Thánh nhân được nhắc tới nhiều lần trong bộ Sấm. Bạch liên hệ
tới tên Thánh, Sỉ hàm chữ Nhân, tức thánh Tản Viên. Tản Viên Sơn
Thánh là một trong tứ bất tử của dân tộc Việt, ngài hóa thân vào một
nhân vật để trị nước an dân.
2- Lại nói sự Đà giang sinh thánh
Hoàng phúc xưa đã định Tây phong
lầu lầu thế giới sáng trong
lồ lộ mặt rồng, đầu có chữ vương
rõ sinh tài lạ khác thường
Thuấn Nghiêu là chí, Cao Quang là tài
Chữ Đà giang bị vua Tự Đức đổi là Hoàng giang, một con sông gần
vùng phát tích của họ Nguyễn ( Gia Miêu, Thanh Hóa ), đổi như vậy
dễ nhận ra vì câu sau Tây phong ( Tây phương ? ) ăn khớp với Đà
giang, thuộc phương Tây đối với Thăng Long hoặc đối với Bạch Vân
Am nơi Trạng Trình nhìn sao chép Sấm. Sau này có cơ quan tuyên
truyền đổi thành : Lại nói sự Nam Đàn sinh thánh, Nam Đàn thuộc
Nghệ An, phía Nam !
( Ông Phan Khắc Hòe cũng đã thuật lại năm 1945 chính ông đã đặt
ra câu sấm : Đụn sơn phân giái, Bò đái thất thanh, Nam đàn sinh
thánh để thuyết Bảo Đại thoái vị- Tạp chí CS 11-82 Hà Nội ).
Đại Ý : Thánh nhân trị nước thanh bình nhân đạo như thời Nghiêu
Thuấn, tài giỏi như Hán Cao Tổ, Quang Vũ Đế trong sử Trung Hoa..
3- Đời này thánh kế vi vương
Đủ no đạo đức văn chương trong mình
Uy nghi dung mạo khác hình
Thác cư một góc kim tinh phương đoài
Đoạn này mô tả dung mạo đức độ thánh quân vương, ngài xuất từ
phương Đoài ( tây phương, kim tinh ). Thể thơ lục bát cho thấy đoạn
sấm được viết vào thời sau, thế kỷ 18-19-20, như một công trình chú
giải Sấm Trạng Trình bằng thơ nôm. Có thể đưa ra giả thuyết là Trạng
Trình không viết Sấm, chỉ đọc một số quẻ Dịch ( như quẻ Càn thuần
quái cho học trò là Trương Thời Cử ) hoặc quẻ Thái Ất... các môn
sinh ghi nhớ sao chép lại, từ đấy lời Sấm được truyền đi, bằng chữ
hoặc bằng lời. Một số quẻ tiên tri như vậy dần dần được chú giải
thêm bằng thơ nôm sau này trong giới nhà Nho, nhà Chùa...tới thời
hiện đại Sấm Trạng Trình trở thành một công trình tập thể.
3- Nói cho hay Khảm cung rồng dấy
chí anh hùng xem lấy mới ngoan
chữ rằng lục thất nguyệt gian
ai mà nghĩ được mới gan anh tài
Thánh nhân ( rồng ) dấy lên ở phương Bắc ( Khảm cung ), vào thời
gian lục thất. Lục thất nguyệt gian có thể dựa trên lịch Thái Ất ( ? ),
trên vận thất khai ( ? ), cụ Ba La không giải rõ mà chỉ nói Thánh nhân
xuất vào thời này, nhưng trước khi xuất thì " phương Bắc phải mạnh
lên đã rồi mới tới đúng thời ". Chữ lục thất giống sấm Nostradamus
nói về tháng 7 tháng 8 dương lịch 1999, tức tháng 6 tháng 7 âm lịch
chăng ? Nếu vậy thì đây là đoạn sấm tính chu kỳ tinh đẩu kỹ càng
như sấm Nostradamus. Chúng tôi nghĩ chữ lục thất đã được xử dụng
trong cả bài sấm của Sư Vạn Hạnh, như vậy đây là một ẩn ngữ hoặc
một cách tính chiêm tinh lý số mà bây giờ không mấy ai thấu triệt.
4- Bốn phương chẳng động can qua
quần hùng các xứ điều hòa làm tôi
bấy giờ rộng mở quy khôi
thần châu thu cả mọi nơi vẹn toàn
Thánh nhân xuất bốn phương an tĩnh, mọi người mọi phe qui phục,
bờ cõi mở rộng, thần châu bao gồm châu Kinh châu Dương khi xưa
thuộc địa phận Bách Việt sẽ thu lại vẹn toàn cho nòi giống.
5- Xem tượng trời biết đường đời trị
Ngẫm về sau họ Lý xưa nên
Dòng nhà để thấy dấu truyền
Ngẫm xem bốn báu còn in đời đời
Xem thiên văn biết nước Việt sẽ tới đời thịnh trị, nhà Lý thời xưa về
sau lại dấy nghiệp lên. Bốn báu đời Lý để lại cho nước Nam ta là
Tháp Báo Thiên, Phật Quỳnh Lâm, Vạc Phổ Minh, Chuông Phả Lại,
còn gọi là An Nam tứ khí do quốc sư Nguyễn Minh Không chủ xướng
như là dấu ấn của triều đại vương đạo thịnh trị.
Triều Lý khởi đầu vào năm Canh Tuất 1010, được 215 năm, thì bị họ
Trần diệt. Trong các vương triều Việt Nam, đây là vương triều dài liên
tiếp nhất và tương đối nhân đạo nhất sau đời Hùng Vương.
Đồng dao có câu :
Bao giờ rừng Báng hết cây Đầm Long hết nước Lý nay lại về
Rừng Báng và Đầm Long gần Đình Bảng, đất phát tích của họ Lý một
ngàn năm trước. Nay rừng Báng cây đã chặt hết, đầm Long đã lấp từ
lâu, vậy là tới chu kỳ họ Lý trở lại chăng ?
6- Lại nói sự Đà giang sinh thánh
sông Bảo giang thiên định ai hay
lục thất cho biết ngày đây
phụ nguyên ấy thực ở rày Tào khê
có thầy Nhân Thập đi về
tả phù hữu trì cây cỏ làm binh
giốc hết sức sửa sang vương nghiệp
giúp vạn dân cho đẹp lòng trời
ra tay điều đỉnh hộ mai
bấy giờ mới biết là tài yên dân
lọ là phải nhọc kéo quân
thấy Nhân ai chẳng mến Nhân tìm về
Năm Giáp Tý vẻ khuê đã rạng
lộ ngũ tinh trinh tượng thái hanh
ơn trên vũ thí vân hành
kẻ thơ Ký túy, kẻ canh Xuân đài
bản đồ chẳng sót cho ai
nghìn năm lại thấy mọi nơi vẹn toàn
Đoạn này nhắc lại Bảo giang và lục thất, hai chữ lục thất chưa thấy
tài liệu nào giải được rành mạch. Có thể chắc rằng đây là một cách
tính trong kinh Dịch, Thái Ất... để cho mốc thời gian từ đó có thể tính
ra chính xác thời điểm xuất hiện của " Ngưu tinh tụ Bảo giang " và "
Đại nhân cư chính trung ". Trong đoạn sấm khác cũng có câu tương
tự :
Quyển vàng mở thấy sấm trời từ Đinh đổi đời chí lục thất
gian
Trong khi chờ đợi các bậc cao minh nghiên cứu lý số tinh đẩu để xác
định, may thay trong đoạn số 5 và số 6 người xưa đã cẩn mật để
thêm một mốc nữa đánh dấu thời điểm thánh xuất : Câu " Ngẫm về
sau họ Lý xưa nên " được nối tiếp ở đoạn sau : " Nghìn năm lại thấy
mọi nơi vẹn toàn ". Như vậy đã khá rõ khi ta đọc liền lại hai câu là
nghìn năm sau họ Lý lại thấy mọi nơi vẹn toàn. Triều Lý khởi đầu
năm 1010, khoảng nghìn năm sau là 2010, hợp với câu Sấm : Canh,
Tân, tàn phá ( Canh Thìn 2000, Tân Tỵ 2001 ), Tuất, Hợi phục sinh
( 2006-2007 ), nhị ngũ dư bình ( nhị ngũ có thể là năm nhuận tháng
5 ? ) sẽ thái bình.
Hai câu sấm khác cũng diễn tả tương tự
Chó nọ vẫy đuôi mừng Thánh chúa ăn no ủn ỉn, lợn kêu ngày
Chó là năm Tuất, Lợn là năm Hợi, cùng hợp vào câu " Tuất,Hợi, phục
sinh ".
Câu " thấy Nhân ai chẳng mến Nhân tìm về " và câu trên " có thầy
Nhân Thập đi về " nhấn mạnh khéo léo những chữ Nhân ám chỉ tên
thánh Tản và cũng hàm ý nhân nghĩa đạo đức của bậc Thánh quân
vương.
Chữ Giáp Tý có thể bị vua Tự Đức đổi vì năm Giáp Tý ( 1804 ) là
năm vua Gia Long được Tầu phong vương mặc dù lên ngôi từ năm
Nhâm Tuất ( 1802 ). Nếu suy diễn một nghìn năm sau nhà Lý đúng,
thì câu đó phải đọc là năm Mậu Tý 2008 đi liền sau 2 năm phục sinh
Bính Tuất 2006 và Đinh Hợi 2007. Nếu là năm Giáp Tý chu kỳ sau,
2044, thì lại không ứng hợp với câu nghìn năm lại thấy mọi nơi vẹn
toàn ( sau nhà Lý ).
Chữ Đà giang bị đổi thành Hoàng giang, chữ phụ nguyên ( chiết tự
thành chữ Nguyễn ) cũng có thể đã bị sửa vào đời Nguyễn.
Tưởng cũng nên kể ra ở đây một sự kiện lịch sử lý thú là con cháu
Hoàng tử Lý Long Tường lưu lạc sang Hãn Quốc từ bảy trăm năm
nay , đã trở về thăm đền Lý Bát Đế tại Đình Bảng, Kinh Bắc, và lễ tổ
vào năm 1997. Như vậy một phần nào lời Sấm đã bắt đầu ứng
nghiệm và đang mở dần dần ra.
* Theo lời Bốc sư Ba La, Sư Vạn Hạnh đã biết núi TảnViên là tổ sơn,
Bảo giang, Bảo Sơn có đại thế phong thủy nên đã đặt đất cho nhà Lý
để nghìn năm sau tái phát thánh vương, lấy đại địa tối linh phối hóa
vào Nhân Thập Bạch Sỉ với đại hồng vận non sông.
* Năm 1963, một nhà Chiêm tinh Ấn Độ sang Việt Nam và đã nhìn
thấy ma khí trong dinh Độc Lập, sau ngày chính biến 11-1963, ký gia
Phan Nghị trên báo Ngôn Luận đã tường thuật cuộc phỏng vấn bị
kiểm duyệt trước đó, bài tường thuật có 2 điểm rất đáng chú ý :
Một là nước Việt Nam có nhiều cơ hội để thống nhất, hai là ông
( Chiêm tinh gia Ấn ) nhìn thấy một vì sao rất sáng trên vòm trời
Khảm phương nước Việt, báo hiệu sự giáng thế của một đại nhân.
7- Chờ cho động đất chuyển trời bấy giờ Thánh mới nên trai anh
hùng dù cho ai chửa biết tường nhất thổ thời sĩ khảm phương thuở
này
ý ra lục thất gian nay thời vận đã định tuần này hưng vương trí xem
nhiệm nhặt cho tường Bảo giang thánh xuất trung ương thuở này
Trong 8 câu này lại thấy Bảo giang,Khảm phương chỉ phương hướng
thánh xuất, ba chữ lục thất gian chỉ định tuần này hưng vương. Đọc
đoạn này càng thấy rõ hai chữ lục thất là chìa khóa Tử vi tinh đẩu
xác định thời điểm hưng vương, thánh Tản hóa thân xuất hiện trên
vòm trời Việt với chủ tinh sao Ngưu ở trung ương và các phụ tinh rực
sáng chung quanh Khảm phương. Chìa khóa đó nằm trong Thái Ất,
Tổng Trì Tam Ma Địa, Quẻ Dịch...mà hiện tại không còn mấy ai thấu
triệt. Có thể Trạng Trình đã xử dụng nhiều khoa lý số- trong đó phải
có khoa chiêm tinh- để đi đến một quẻ tiên tri vận số quốc gia ngũ
bách niên hậu. Điều này Sư Vạn Hạnh đã làm trước Trạng Trình
500 năm và đã xử dụng khoa Tổng trì Tam Ma Địa với ảnh hưởng
chiêm tinh học Tuyết sơn Hy Mã do các nhà sư Tây Trúc mang sang
trung tâm Luy Lâu ( thuộc Kinh Bắc ). Bài Sấm của Vạn Hạnh được
ghi trong chính sử có ba câu kết đáng chú ý :
Đoài cung ẩn tinh Lục thất niên gian thiên hạ thái bình.
Đoài cung, phương Tây, và lục thất gian được nhắc đi nhắc lại rất
nhiều lần trong Sấm Trạng Trình. Có thể Trạng Trình chỉ xác định lại
lời tiên tri của Vạn Hạnh. Vạn Hạnh nhìn ra ẩn tinh một ngàn năm
sau và Trạng Trình cũng nhìn ra năm trăm năm sau bằng cùng một
khoa lý số học. ( Xin xem phần Sấm Vạn Hạnh ) .
8- Tìm lên đến Thạch Bàn Khê có đất sinh Thánh bên kia cuối
làng ..........chẳng tìm thì đến Bình gia Thánh chưa sinh Thánh báo
ca địa hình nhìn xem phong cảnh cũng xinh Tả long triều lại có
thành đợt vây Hữu hổ uốn khúc giang này Minh đường thất diệu
trước bày mặt tai đằng xa thấy một con voi cúi đầu quen bụi, trông
về hồ sau ấy điềm Thiên tử về chầu tượng trưng Đế thánh, tộ lâu trị
đời ..........Đến đời thịnh trị còn lâu....
Đoạn này của hậu thế dựa trên Sấm Trạng đi tìm đất sinh Thánh và
mô tả phong thủy địa lý của ngôi đại địa đó. Thạch Bàn Khê là khe
suối Thạch Bàn nơi Sơn Tinh tức Thánh Tản lựa chọn ngự giá : "
Vương đi lên núi Thạch Bàn đầu non Vân Mộng mà ở..." theo Lĩnh
Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp.
Câu Thánh chưa sinh Thánh có nghĩa là Thánh Tản chưa hóa thân
vào một vị Thánh vương.Về phương diện phong thủy người ngắm đất
thấy Tả long, Hữu hổ, Minh đường và một thế đất hình con voi. Hữu
hổ uốn khúc giang này cho biết tay hổ bên dòng sông, Bảo giang tức
Đà giang vốn là tay hổ ( tả long hữu hổ ) theo địa lý vùng đất Hồng
Đà, Tam Đảo Tản Viên. Đến đời thịnh trị còn lâu cho thấy đoạn này
đã được viết khá lâu, có thể từ thế kỷ XVIII- XIX.
9- Trí xem nghiêm ngặt cho tường Bảo giang Thánh xuất trung ương
thuở này Vua ngự Thạch Bàn xa thay đại ngàn vắng vẻ những cây
cùng rừng
Vua còn cuốc nguyệt cày mây phong điều vũ thuận thú rày an thân
phong đăng, hòa cốc chứa chan Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây
Chính cung phương Khảm vần xoay thực thay Thiên tử là tay trị
đời...
Đoạn này mở rộng đoạn trước : Vua ở Thạch Bàn bên Bảo giang trong
khu rừng vắng vẻ. Vua chưa xuất, còn cuốc trăng cày mây chờ thời.
Người biết chiêm tinh lý số thấy được mây ngũ sắc hiện ra nơi Khảm
cung phương Bắc, thấy chu kỳ tinh đẩu tụ hội trên giang sơn gấm vóc
với sao Ngưu tinh trung ương rực rỡ.
Có thể đoạn Sấm này được viết ra không lâu ( thế kỷ XIX ? ) vì người
viết đã thấy ngũ sắc mây tức điềm lành, mà điềm lành không thể
hiện ra mấy trăm năm trước.
10- Đời ấy những quỷ cùng ma chẳng còn ở thật người ta đâu
là .....cây bay lá lửa đòi ngàn một làng còn mấy chim đàn bay ra bốn
phương cùng có can qua làm sao cho biết nơi hòa bảo thân .....chiến
trường chốn chốn cát lầm kẻ nằm đầy đất kẻ trầm đầy sông
Nói về cảnh tao loạn. Lúc sinh thời, Trạng Trình đã sống trong nội
chiến, ông tiên đoán 8 đời sau " binh qua khởi trùng trùng " cho tới
thời " Ngưu tinh tụ Bảo giang " mới thanh bình thật sự. Những câu
trên không biết ứng vào thời loạn nào, không thể xác định được thời
gian.
11- Xem Đoài cung đến thời bất tạo thấy vĩ tinh liệu dạo cho mau
nguôi lòng tham tước tham giầu tìm nơi tam hiểm mới hầu bảo thân
trẻ con mang lệnh tướng quân ngỡ oai đã dậy, ngỡ nhân đã
nhường...
Vĩ tinh, sao chổi, là điềm rất xấu đối với Đông và Tây. Năm 1910
sao chổi Halley có đuôi dài hết chân trời, các lần xuất hiện trước
vào năm 1531, 1607, 1682, 1758... lần gần đây nhất là năm 1986.
Cổ nhân thấy sao chổi, mây thành ( mây đen kín và thẳng băng chân
trời như bức thành đen dài ) chiêm nghiệm là loạn lạc binh biến xẩy
ra. Năm 1949 có mây thành xuất hiện ở miền Bắc và chiến tranh
kéo dài suốt 25 năm.
Hai câu cuối nhiều người cho là ứng vào cuộc chiến Việt Nam vừa
qua, đàn bà trẻ con thiếu niên cũng được dùng vào chiến trận. Nơi
tam hiểm có người cho là núi cao, sông sâu, rừng rậm, nhưng nếu
ẩn thân vào những nơi đó thì phải vào thời xưa mới bảo thân được,
thời nay chiến tranh bom đạn không còn nơi nào trốn tránh an toàn.
12- Một cơn sấm dậy đất bằng Thánh nhân ra mới cứu hằng sinh
linh lược thao văn vũ tài tình mới hay phú quí hiển vinh lạ lùng Tam
công gập hội vui mừng bõ khi cá nước vẫy vùng biển sông bõ khi
chém rắn vẽ rồng bõ khi non Bắc ải Đông mịt mù bõ khi kẻ Việt
người Hồ bõ khi kẻ Sở người Ngô xa đường.
Sau chiến tranh khốc liệt, Thánh nhân mới xuất để trị dân vỗ về
trăm họ.Ba bậc hiền thần-Tam công- sẽ cùng Thánh vương gánh vác
non sông, bõ khi xa cách mỗi người một phương. Đoạn này có thể
ứng vào giai đoạn hiện tại khi dân Việt tản mát khắp năm châu, kẻ
Việt người Hồ, kẻ Ngô người Sở. Có câu Sấm khác : Tỵ nhân vi
tướng, Thìn, Tuất vi quân sư, có thể ứng vào ba vị Tam công cột trụ
đó không ?
13- Đoài phương thực có chân nhân quần tiên khởi nghĩa chẳng
phân hại người vững nền Vương cha truyền con nối dõi muôn đời
một mối xa thư bể kình tăm lặng bằng tờ trăng thanh ai chẳng ơn
nhờ gió xuân Âu vàng khỏe đặt vững chân càng bền thế nước Vạn
Xuân lâu dài.
Bậc chân nhân xuất ở phương Tây cùng thất thập nhị hiền tướng
( xem phần Sấm chữ Nho ), phân phân tùng bách khởi, nhiễu nhiễu
xuất Đông chinh,đây là cuộc đại tập hợp dân tộc, lấy nhân nghĩa
thắng hung tàn của quần tiên phá chấp, từ bi đại lượng, không một
giọt máu đổ. Lúc ấy núi sông sẽ vững âu vàng, thế nước Vạn Xuân
lâu dài Vương đạo.
GAN LOC SẤM BẢN
Qua 13 đoạn Sấm gồm 105 câu kể trên, chúng tôi hy vọng đã chắt
lọc được những ý chính của tập Sấm quốc ngữ khoảng 400 câu tương
truyền là Sấm Trạng Trình. Những câu khác, khoảng 300 câu, chúng
tôi không bàn luận vì rơi vào những trường hợp sau :
1- NHỮNG CÂU KHÔNG PHẢI LÀ SẤM TRẠNG
Những câu Sấm ( 16 câu ) do cụ Phó Bảng Nguyễn Can Mộng sáng
tác vào thời 1930 sau khi Pháp thả bom Cổ Am để tiêu diệt các nhà
ái quốc :
... Tan tác Kiến kiều An đất nước
Xác xơ Cổ thụ sạch Am mây
... Cha con nhà Vĩnh, Bảo cho hay
Các địa danh Kiến An, Vĩnh Bảo, Cổ Am thuộc vùng khởi nghĩa của
Quốc Dân Đảng Việt Nam.
Hoặc câu : Lửa đâu mà đốt tám gà trên mây
Tám gà chữ Nho là Bát Kê, ám chỉ Toàn quyền Thực dân Pasquier
( đọc âm giống chữ Bát kê ! ) bị nạn máy bay chết cháy thời đó. Một
nhà Nho cùng thế hệ với các cụ Sở Cuồng, Nguyễn Can Mộng... là cụ
Ba La ( 1870 ?-1973 ) cho biết thời 1930, để thức tỉnh lòng yêu nước
và vận động tinh thần chống Pháp, một số nhà Nho đã đặt ra nhiều
bài thơ loại bí hiểm như sấm ký để truyền trong quần chúng. Cụ Phó
Bảng Nguyễn Can Mộng cũng là người viết ra bài Văn tế Cá Sấu với
tên Hàn Thuyên để đề cao văn chương chữ Nôm đã có dấu tích từ
thế kỷ XII ! Nhưng cũng chính nhờ các nhà Nho yêu nước đó mà mọi
người mới tìm về cội nguồn dân tộc và hãnh diện với kho tàng tinh
thần của tổ tiên lưu truyền lại.
2- LẪN LỘN : 
Ngoài vài bản đáng tin cậy nhất như bản của Sở
Cuồng ( 1930 ), bản Nam Ký ( 1945 ), nhiều bản sau này in lẫn cả
bài Sấm của Sư Vạn Hạnh vào Sấm Trạng Trình :
Hòa đao mộc lạc
thập bát tử thành..
Hoặc những câu đồng dao, ca dao như :
Bao giờ ngựa đá qua sông
thì dân Vĩnh Lại quận công cả làng
Có khi người sau dựa vào một biến cố lịch sử rồi viết ra cũng gọi là
sấm :
Đầu cha lộn xuống chân con
mười bốn năm tròn hết số thì thôi
Chữ Quang ( Quang Trung ) có chữ Tiểu ở trên, chữ Cảnh ( Cảnh
Thịnh con vua Quang Trung ) cũng có chữ Tiểu ở dưới, được 14 năm
thì dứt.
3- Rất nhiều câu thơ đặt ra với dụng ý TUYÊN TRUYỀN hoặc chống
đối , rồi gán cho Sấm Trạng Trình từ thời nhà Nguyễn tới hiện đại :
... Dục lòng chinh chích u mê
thập trên tư dưới nhất đề chữ tâm
để loài bạch quỷ Nam xâm...
Thập trên tứ dưới là chữ Đức, với chữ Dục ở câu trên là vua Dục Đức
hay Tự Đức, để Pháp xâm chiếm Việt Nam.
Đến thời thiên hạ vô quân
làm vua chẳng dễ làm dân chẳng lành
gà kêu cho khỉ dậy nhanh
phụ nguyên số đã rành rành cáo chung.
Năm Gà ( Dậu 1945 ), năm Khỉ ( Thân 1944 ), nhà Nguyễn ( phụ
nguyên ) hết số.
Sau khi Mỹ thả bom nguyên tử xuống Nhật Bản lại thấy truyền khẩu
hai câu :
Nguyên tử giản cầu kinh Nhật Bản
Phong lôi hỏa thạch chấn Hoa Kỳ
Hai câu khác :
Chừng nào sen mọc biển Đông
cha con nhà Nguyễn bế bồng nhau đi...
Có người giải là hoa Sen ( Liên hoa ) chỉ Liên Sô bành trướng về
phương Đông, có người giải là thời Nhật mang Sen thả ở sông ao, là
lúc nhà Nguyễn phải ra đi.
Sau này câu trên được đổi thành :
Chừng nào trúc mọc quanh thành...
để chỉ huy hiệu cây trúc của họ Ngô ở miền Nam !
Khi Phan Bá Vành khởi loạn ( 1827 thời Minh Mệnh ) cũng đặt ra
câu sấm :
Trên trời có sao tua rua
duới đất có vua Ba Vành

Bao giờ đường sắt đen xì
Voi đi trên giấy Tây thì về Tây
cũng là loại sấm bình dân sáng tác văn chương truyền khẩu mà
thôi.
Tất nhiên cho tới hiện tại vẫn còn những câu sấm bịa đặt do các
phe phái truyền ra như " lại nói sự Nam Đàn sinh thánh " của phe
này, hoặc câu " bao giờ diều đỏ đứt dây, ma vương điện toán cộng
thây đầy đường " của phe khác, càng chứng tỏ tầm ảnh hưởng của
Sấm Trạng Trình mỗi ngày một lan rộng và vì thế việc phân định
chính giả lại càng cần thiết hơn.
4- Những câu không có giá trị tiên tri, chỉ là lời thơ mang chất đạo
đức KHUYÊN RĂN như :
Một câu là một nhiệm mầu
anh hùng ngẫm được mới hầu giá cao
Chốn Đông Nam là lò khổ ải
tránh cho xa kẻo mắc đao binh
Lại giận đấng nam nhi chí cả
chớ vội vàng tất tả chạy rông
học cho biết lý cát hung...
5- Những câu chứa đựng NĂM THÁNG MƠ HỒ không thể định
mốc thời gian như :
Hùm già lạc dấu khôn về
mèo non chi chí tìm về cố hương
Tý, Sửu, Dần, hội Thánh hội Thần...
hội Tiên hội Phật hội ông lão già...
Gà đâu sớm gáy bên đường
chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không
có thể là những câu làm ra từ thời xưa, ứng với một hoàn cảnh lịch
sử nào đó vào năm Tý năm Sửu, năm Gà năm Mèo... từ những thế
kỷ trước mà nay không còn giá trị tiên đoán tương lai nữa.
Hàng trăm câu sấm trong nhiều bản in rơi vào trường hợp 4 và 5,
không liên hệ tới chủ đề Thánh nhân xuất của Sấm Trạng Trình.


TRÍCH TRONG CUỐN VIỆT SỬ SIÊU LINH của LƯU VĂN VỊNH .
dienbatn giới thiệu .


Xin xem tiếp bài 3 - dienbatn.

Bài viết liên quan tại chuyên mục:NGHIÊN CỨU PHONG THUỶ

Không có nhận xét nào:

Đặt mua Website này: 100.000 Vnđ - Liên hệ: Click here