Nội dung tiêu đề 2

Phần viết nội dung tiêu đề 2

Thứ Tư, 4 tháng 9, 2013

PHONG THỦY LUẬN. BÀI 22.

PHONG THỦY LUẬN .
PHẦN 3 : KHẢO QUA MÔN CẢM XẠ PHONG THỦY.
2/ THỰC HÀNH CẢM XẠ TRONG PHONG THỦY . 
B/ ĐỊA SINH HỌC - THIÊN ĐỊA NHÂN - CẢM XẠ HỌC.



1/ NHỮNG HIỆN TƯỢNG ĐÁNG CHÚ Ý TRONG CẢM XẠ PHONG THỦY.

Trong một số trường hợp ung thư , người ta vô vọng tìm ra nguyên nhân . Song một số nhà Cảm xạ , có thể tìm ra nguyên nhân của nó là do một sóng từ xuất hiện ngay dưới giường nằm của bệnh nhân. Đến khi người ta dời cái giừng của bệnh nhân sang một chỗ khác , người bệnh dần được bình phục. Công việc của nhà Cảm xạ đó là tìm ra một điểm giao nhau của 2 dòng nước ngầm ở dưới đất , ngay chỗ giường nằm cũ của bệnh nhân. Nếu không dời giường đi , tía Ác xạ ấy cứ bốc lên , dần dần người bệnh sẽ chết.
Tất cả những ai đặt giường nằm trên các mạch nước ngầm đều có thể phát bệnh, song có một số người thay đổi hướng nằm thì đã trút đi được những sự việc chẳng lành đó.
Một cái cây phát triển xanh tốt trong một phòng khách này , nhưng lại gây độc hại cho một căn phòng khác do ảnh hưởng của những vũng nước dưới nền máy giặt cùng đặt tại chỗ đó.
Có những điều bí ẩn người ta không giải thích được đó là những tai nạn giao thông cứ lập đi lập lại nhiều lần tại một địa điểm. Dù rằng người ta đã cố tạo ra những biện pháp đảm bảo an toàn . Đó là vì người ta chưa tìm ra nơi giao điểm của một phay đất địa chất với một dòng chảy ( Theo dienbatn còn một nguyên nhân nữa là tại đây có hiện tượng giống như Ma Thần Vòng -dienbatn sẽ nói rõ ở những phần sau ). Cứ nhìn dọc đường quốc lộ , chúng ta dễ dàng nhận thấy những bàn thờ nhỏ ngay bên cạnh lề đường , đó chính là dấu tích của những tai nạn lập đi lập lại cùng một vị trí . Người ta nghi ngờ những mãnh lực vô hình nào đó tác động và việc lập ban thờ như trên hy vọng sẽ tránh bớt được những tai nạn. Dù sao đi chăng nữa, việc đó cũng có tác động ít nhiều đến những người tham gia giao thông, khiến cho họ cảnh giác hơn khi đi qua chỗ đó. 
Một trường hợp khác : Hai chuồng ngựa xây dựng kề nhau trên một sườn đồi . Nước thảỉ của chuồng trên đi ngang qua chuồng dưới  thấp gây ra ngựa ở chuồng dưới bị bệnh chết. Người ta dời chuồng ngựa phía dưới đi chỗ khác, đàn ngựa lại được yên lành.
Một trường hợp khác là hiện tượng những ngôi nhà chết . Cụm từ này thu hút sự chú ý của mọi người do nhà Cảm xạ Roget De Lafforest đưa ra . Đó là những thông tin về sóng độc hại trong lòng đất mà cho đến nay khoa học vẫn còn coi là những việc lạ lùng . Ví dụ như một căn nhà xây cất kiên cố , gắn bó với những người ở trong nhà nhiều năm. Sau này khi họ chết đi hay dời qua nơi khác , những sóng bức xạ của họ vẫn quanh quẩn nơi đó nhiều năm sau.

2/ VẤN ĐỀ SÓNG ĐỘC HẠI.

Có một số trường năng lượng mang từ tính khác nhau ảnh hưởng đến cuộc sống trên mặt đất như :
* Trường đa dạng theo hướng Bắc - Nam của trái đất.
* Trường nội lực trong lòng đất.
* Trường ngoại lực do tác động của hệ mặt trời mà người ta nhận ra qua sự phát xạ của các thiên thể.
* Năng lượng âm tính do những cơn bão đem đến cho quả đất .
Ngược lại là những năng lượng dương tính là năng lượng thiên nhiên của vũ trụ ( Trường năng lượng của Thái dương hệ ).
Quan hệ giữa những trường năng lượng đó với con người biểu thị mối quan hệ Thiên _ Địa - Nhân là nội dung của Địa động học. Việc xuất hiện các sóng ác xạ liên quan mật thiết tới quá trình tự cân bằng năng lượng , cân bằng sinh thái.
" “Trên hành tinh của chúng ta sự sống được bắt đầu và duy trì bởi các bức xạ, đồng thời cũng bị hủy diệt bởi những sự dao động mất cân đối của nó”.
Trong thời đại hiện nay, ngoài các môn khoa học như sinh học, vật lý, hóa học, địa chất học, các hiện tượng sóng…, con người ngày càng quan tâm tới mối liên hệ giữa SỨC KHỎE và NƠI Ở. Do đó khoa ĐỊA SINH HỌC đã hình thành. Cũng như Y học, ngoài nền Y học chính thống ra còn một nền Y học thay thế, Y tế dự phòng (alternative medicine) song song tồn tại với nó. Khoa học tự nhiên cũng có nhiều vấn đề chưa giải thích được, nhưng đại đa số quần chúng bình dân vẫn xem chúng như gắn liền với cuộc sống của họ. Là những nhà khoa học chân chính, chúng ta không nên có một thái độ thiếu khoa học là bác bỏ thẳng thừng những điều mà chính chúng ta chưa thể lý giải được. Trên tinh thần đó, một sự tiếp cận mới gần đây khuyến cáo ta cần phải quan tâm đến việc mỗi người đều có liên quan mật thiết đến nơi ở của mình. Và phải làm thế nào để có thể thuần hoá các địa điểm trên đang bị chi phối bởi những sức mạnh hiện diện một cách vô hình: các trường hay bức xạ khác nhau, năng lượng, khí hậu sinh học, thuỷ thổ… Đó là một thách thức mới đặt ra với những người làm công tác khoa học, nhất là những người chuyên nghiên cứu môn Năng lượng Cảm xạ học. Cần phải đặc biệt quan tâm đến những hiện tượng xảy ra xung quanh nơi ở của bạn vì chúng có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của bạn. Điều cần thiết là phải làm thế nào để có một sự đồng nhất giữa sóng rung động của bạn với sóng rung động của chính nơi bạn ở. Đó là điều thiết yếu cho một sự hài hòa và thích hợp. Bạn đã biết rõ tính năng nhạy cảm và hệ thống thần kinh thực vật của con người sẽ bị thay đổi trước một số chất liệu (mỹ phẩm, nước hoa, màu sắc…) hay những thông tin xung quanh bạn. Thí dụ: Chúng ta ghi nhận đa số những người mắc bệnh hiểm nghèo đều có những điểm giống nhau: đó là nơi họ ngủ phần nhiều là những điểm có chỉ số địa từ trường xấu (đũa dạt ra và lắc quay ngược), chỉ số Bovis dưới 3.000. Chỉ cần thay đổi chỗ ngủ hoặc chuyển đi nơi khác có chỉ số địa từ trường tốt (đũa chập lại và lắc quay thuận), chỉ số Bovis trên 6.500 thì bệnh giảm rõ rệt. Sự hiểu biết về lĩnh vực này đòi hỏi bộ môn Năng lượng Cảm xạ học đào tạo ra những nhà thực hành Cảm xạ có chuyên môn vững vàng và thành thạo. Con người là một tổng thể, sống trong môi trường phức tạp mà chỉ cần một sự mất cân đối nhỏ từ bất cứ nguyên nhân nào cũng có thể phát sinh bệnh tật. Sóng địa từ trường hiện diện khắp nơi trong vũ trụ và nó có những ảnh hưởng nhất định đến sức khoẻ chúng ta. Khoa Địa sinh học nghiên cứu các mối liên hệ giữa trái đất và cuộc sống, sức khoẻ và nơi ở, các tác động của địa từ trường trên vật thể sống, trên vật liệu xây dựng, trên hình thể kiến trúc, trên trang thiết bị, màu sắc, tiếng ồn… Một sự tiếp cận để biết một cách tổng quát về môn Năng lượng Cảm xạ với Địa sinh học sẽ mang lại cho chúng ta một sự hòa hợp tốt đẹp giữa con người với môi trường xung quanh.
Tài liệu này không chỉ đơn thuần là một tài liệu về Cảm xạ học với Địa sinh học, mà nó thực sự là một tuyển tập về nghệ thuật sống nhằm làm chúng ta biết sống như thế nào cho tốt hơn.
Các nhà khoa học ở Âu châu và Hoa Kỳ đã phát hiện được các “ngôi nhà ung thư”, “nhà ly dị” và điều này liên hệ mật thiết với môi trường: cấu tạo đất, mạng lưới năng lượng đất, dây dẫn điện, vật liệu xây dựng, kiểu dáng, màu sắc.
Qua quan sát, các nhà Sinh học và Vật lý học xác nhận các nguyên tắc của lý thuyết Đông phương cổ đề ra: đất giống như một sinh vật sống.
Nhà Cảm xạ Địa Sinh học cũng tiến hành cách tiếp cận để tìm giải pháp tổng thể cho vấn đề chứ không chỉ giới hạn ở một vài khía cạnh nhỏ bé của nó. Thế giới không phải chỉ giới hạn trong nhận thức từ các giác quan của chúng ta. Có một dòng chảy lưu thông bên trong vật thể để chuyển tải thông tin: đó là năng lượng. Phương trình đánh dấu thế kỷ XX của Einstein E=mc2. Thật là giản dị! Nhưng phải mất nhiều thời gian để quan niệm này được chấp nhận.
Cùng với việc coi năng lượng là bản chất của vật chất và tinh thần, có một tư tưởng quan trọng nữa làm ảnh hưởng đến nhận thức của nhân loại là coi vũ trụ như một tổng thể thống nhất. Sau phát minh về ảnh toàn đồ (hologram) của Gabor (giải Nobel 1972), các công trình của David Bohm về vũ trụ toàn đồ đã thu hút nhiều nhà nghiên cứu. Các ý tưởng này cũng trùng với lý thuyết Thiên-Địa-Nhân hợp nhất của của người Phương Đông, cũng như các lý thuyết về vũ trụ – vật chất của Trung Quốc và Ấn Độ cổ đại.
Phải căn cứ vào sự nghiên cứu và quan sát để nhận ra rằng mỗi yếu tố trong đời sống đều chứa đựng cái toàn thể và mong muốn được hoà hợp với cái khác. Hiện tại có nhiều học thuyết mà qua trình bày của những người đã xây dựng ra chúng, kết hợp ý tưởng giữa người này và người khác, dẫn đến sự gặp nhau, bổ túc cho nhau. Rất có thể trong tương lai họ làm cho tất cả đều hợp nhất lại.
Nhiều thử nghiệm được tiến hành với một loạt các dụng cụ đã cho những kết quả có thể tạo ra sự thừa nhận các lý thuyết mới về khoa học trong cuốn sách này. Mục tiêu của cuốn sách này là nhằm phổ biến và thực hành các hiểu biết về “Nơi ở an toàn”.
Ngày nay ta biết rằng vũ trụ là một hệ thống gồm các yếu tố sống động tùy thuộc vào nhau, không thể tách rời ra, luôn luôn chuyển động, vừa là yếu tố vật chất vừa là ý thức. Từ khái niệm năng lượng, nhiều nhà nghiên cứu đưa thêm khái niệm tinh thần, tư tưởng cũng có liên quan đến thế giới vật chất. Tính thống nhất của vũ trụ theo vật lý học hiện đại cũng gần với quan điểm của Phật giáo về cái Bản thể, cái Một, cái Duy nhất, phù hợp với quan điểm Thiên-Địa-Nhân hợp nhất của phương Đông. Sự khám phá ra tính thống nhất, tính tổng thể dạng toàn đồ (hologram) của vũ trụ có thể coi là 1 bước ngoặt lớn về nhận thức thế giới quanh ta. Một ví dụ dễ hiểu là khi một người bị bệnh ở gan, sẽ thấy thể hiện bệnh chính ở gan (kiểm tra sinh hóa gan theo Tây y) nhưng cũng thể hiện ở mắt, ở tai, ở mặt, ở móng tay, ở bàn chân, ở giọng nói, hơi thở, nhịp mạch (theo Đông y), vì con người là 1 tiểu vũ trụ có tính tổng thể, tính toàn đồ của Đại vũ trụ.
Chúng ta biết vũ trụ là một hệ thống bao gồm các vật thể, phụ thuộc vào nhau, di chuyển liên tục như một đại dương, năng lượng luôn biến động.
Theo Basarah Nicolescu, các photon là những phần tử vận chuyển thông tin giữa thế giới nội tâm và ngoại giới. Các quá trình năng lượng được thực hiện qua việc trao đổi électron-photon và phần lớn xảy ra với tốc độ ánh sáng. Bản thân các quá trình được các phản ứng sinh hóa-thần kinh trong bộ não con người giải thích như quá trình trao đổi photon, từ đó dẫn đến các nhận thức, vấn đề trí nhớ, cảm giác… đều liên quan đến photon, đến năng lượng.
Hiện tại, các vấn đề về năng lượng – vật chất – ý thức còn đang được nghiên cứu. Thật ra dường như người ta mới chỉ đạt được những bước đầu và chỉ mới sử dụng được một phần nhỏ cái khả năng khổng lồ của nó mà thôi.
Từ tính trên mặt đất
Trên bề mặt của trái đất có một từ trường mà chiều của nó được xác định bằng la bàn.                    
Từ trường của trái đất là cái hiện hữu và luôn vận động nghĩa là luôn cùng một hướng và cùng một giá trị ở một nơi định sẵn. Người ta xác định địa từ trường qua các toạ độ của nó.
Vả lại, các đường giới hạn bắt buộc của từ trường trái đất không nằm trên mặt đất. Chúng chui sâu trong lòng đất theo hướng của vùng có mật độ từ tính cao ở cực Bắc. Góc hợp thành giữa đường ngang và trục của kim lúc dao động tự do là vào khoảng 65o trong vùng: đó là độ nghiêng. Ta dễ dàng tìm thấy hướng Bắc qua việc xác định hướng của bóng một sợi dây đúng lúc 12 giờ trưa. La bàn chỉ hướng Bắc từ tính tạo với hướng Bắc địa lý một góc nhỏ gọi là độ lệch – thay đổi từ từ theo năm tháng và khác biệt theo từng vùng trên bán cầu.
Các tọa độ này sẽ thay đổi theo địa điểm và nếu ta thể hiện trên bản đồ từ tính các đường cong nối các điểm khác nhau mà một trong các toạ độ này có cùng một trị số với nhau. Chúng biểu hiện các bất thường của địa phương liên hệ với các đặc tính sinh học của lòng đất. Nơi đó được sử dụng cho  các đo lường từ tính để thăm dò địa vật lý. Nhà Địa Sinh học dùng một máy địa từ trường để phát hiện  các dị thường của từ trường bên trong một ngôi nhà, cơ quan.
Thông thường, cường độ từ trường của các điểm bình thường trên mặt đất cỡ 0,5 miligram. Gaus là đơn vị đo cường độ từ trường, 1 gaus = 1.000 miligram.
Các sóng điện từ
Trong thời gian sóng điện từ lan toả, một số sóng chạy dài trên đất, số khác tự biến mất, số khác thì phản chiếu vào lòng đất ngang tầm của tầng điện ly (tầng ion hoá học).
Một số sóng điện từ khi lướt qua trên mặt đất thì một phần do đất hấp thụ nơi mà có các dòng điện tự tạo ra ở một độ sâu nào đó, dòng điện này càng xuống sâu càng giảm. Các sóng dài và các sóng có tần số yếu dễ dàng xuyên thấu do vậy các dòng điện trên bề mặt đặc biệt yếu vì năng lượng được phân bố ở độ sâu.
          Đối với sóng ngắn, trái lại, các dòng điện trên mặt sẽ cao hơn và ảnh hưởng của nó gia tăng theo tần số.
          Dòng điện cũng gia tăng với tính dẫn điện từ của đất. Đất có tính dẫn điện cao là đất ẩm ướt ở trên mặt, do đó dòng điện rung động với một cường độ mạnh hơn.
          Trong một số trường hợp, chúng có thể có tác động nguy hại cho đời sống.
Hàng ngày vào bất cứ lúc nào, cơ thể ta bị các bức xạ chiếu vào, ngay cả lúc bình thường ta không nhận ra. Phần lớn các bức xạ đến với chúng ta từ khoảng ngoài không gian, mặt trời, các vì sao.
Một số bức xạ khác được hình thành một cách tự nhiên trên bề mặt của trái đất. Chúng đến phần lớn từ sự phóng xạ của các khối đá trong lòng đất ví dụ như uranium.
Các bức xạ là một phương tiện vận chuyển cho năng lượng tại một điểm: từ chỗ phát đến chỗ thu. Thường chúng di chuyển theo đường thẳng dưới dạng bức xạ.
Các bức xạ vô hình là những sóng vô tuyến, bức xạ hồng ngoại, cực tím, tia X, tia gamma, tất cả những sóng này truyền qua không gian với vận tốc bằng vận tốc ánh sáng tức 300.000km/giây.
Nguyên tắc chụp tia X hay scanner ứng dụng trong y học và nha khoa được dựa trên sự phát các sóng điện từ này. Tùy theo sự thâm nhập hay hấp thụ bởi cơ thể con người, các bộ phận có thể hiện trên phim hay trên màn hình.
Ảnh hưởng nhiệt học của chúng được sử dụng trong nguyên tắc lò vi ba. Rada thì sử dụng ảnh hưởng này trong một ứng dụng khác. Một số các bức xạ điện từ này có đặc tính làm biến đổi cấu trúc điện từ của nguyên tử, đó là những bức xạ ion hoá, đặc biệt được dùng trong bảo quản thực phẩm. 
 Tính phóng xạ
Có 3 loại bức xạ phát ra từ các chất phóng xạ.
-      Các tia alpha là những nhân nguyên tử héli. Chúng tích điện dương vì được cấu tạo bằng 2 proton (dương) và 2 neutron (không tích điện).
-      Các tia bêta: Chúng không có trong nhân nhưng chúng được phát ra khi một neutron biến thành 1 proton cộng với 1 électron trong một nhân.
-      Các tia gamma là những sóng điện từ có bước sóng rất ngắn. Đó là những bức xạ thấm sâu nhất.
          Đối với các chất phóng xạ nguy hiểm, các phần tử vật chất alpha và bêta không thể thâm nhập sâu trong tế bào sống mà chỉ tạo thành những vết bỏng trên da. Nhưng tia gamma thì nguy hiểm hơn vì chứa năng lượng cao và khả năng thâm nhập lớn của chúng có thể gây tổn hại cho các phân tử của chất di truyền (ADN) được tích luỹ trong các bộ phận sinh sản và gây ra các đột biến làm nguy hại cho sự sinh sản sau này. Vì lý do này mà các chất phát tia gamma được lưu giữ sau các màn dày của bê tông và chì.
Chớ nên đánh giá quá cao cũng như quá thấp các nguy hại của những phóng xạ này mà chỉ cần tự bảo vệ. Vì vậy người ta ấn định một số định mức an toàn để mọi người tuân thủ.       
Dư Quang Châu (Bộ môn Năng lượng Cảm xạ) ".

3/ CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA MÔN ĐỊA SINH HỌC

Ngày nay,  Các nhà Địa vật lý nghiên cứu cấu tạo của địa cầu thấy rằng mọi sự bất thường trong cấu tạo địa chất đều thường dẫn đến một sự xáo trộn ở bề mặt trái đất, tác động đến con người.  Các nhà Thiên văn vật lý đã chứng minh thiên hà giống như sao chổi từ tính, khi di chuyển trong không  trung tạo ra các hiện tượng bão từ, địên từ cảm ứng trong lòng đất , đại dương và trong không gian. Các Bác sĩ Y năng lượng đã tìm thấy trong khoa Địa sinh học một lời giải đáp cho một số tác nhân sinh bệnh.  Thông thường, khi địa từ trường thay đổi, môi trường sống bị tác động, con người dễ bị mất quân bình và kéo theo tật bệnh. Nguyên nhân này đôi lúc mang vẻ bí ẩn vì mấy ai nghĩ đến những hệ thống điện từ trường chằng chịt có thể làm xáo trộn cuộc sống do các tác động cộng hưởng của trường điện từ từ bên ngoài với các dòng điện trong cơ thể con người, nhất là khi dùng điện không đúng cách có thể gây nguy hại từ mức độ nhẹ như : đau đầu, mất ngủ đến sinh bệnh nặng như: căng thẳng, suy nhược, hen suyễn, ung thư . . . chưa kể đến những xáo trộn trong cuộc sống lứa đôi dẫn đến ly hôn.
Và con người nhận ra rằng: muốn sống thỏai mái, khỏe mạnh thì phải sống trong một môi trường vừa có tính chất hóa học hợp lý, vừa có tính chất vật lý phù hợp. Đó là một môi trường:
  •  Không khí trong lành như ở nông thôn, bờ biển, rừng núi . . . 
 •  Thời tiết ổn định như : nhiệt độ, gió, độ ẩm . . . 
 •  Chất liệu của đất để tạo ra các bức xạ phóng lên từ  lòng đất thích hợp cho con người.  
•  Bức xạ phóng ra trong không gian gồm bức xạ mặt trời và bức xạ vũ trụ ở một giới hạn cho phép. 
 •  Hạn chế được các bụi khói công nghiệp, ô nhiễm hóa chất, bụi khói xe cộ.  Với cảm xạ Địa sinh học, chúng tôi sẽ đi sâu và giúp cho các bạn làm thế nào để xây dựng và ắp xếp ngôi nhà của mình một cách lành mạnh, chẳng hạn như chọn nơi thích đáng để đặt giường ngủ, để có thể hạn chế ảnh hưởng của các bức xạ có hại.

4/MẠNG LƯỚI HARTMAN.
Địa sinh học hiện đại bắt đầu có vào những năm 50 nhờ Ernst Hartman, Bác sĩ người Đức của trường đại học Heidelberg.
Bs Hartman đã phát hiện lại rằng tổ tiên chúng ta từ lâu rồi, chắc chắn là từ thời Cổ Đại đã biết trái đất bị bao phủ với kiểu nào đó bởi một lưới sóng điện từ trường phát ra đồng thời từ vũ trụ và từ đất Và bao phủ đồng đều khắp quả đất, (ngoại trừ một vài vùng như Hi-mã-lạp-sơn, thì trục bắc – nam của nó giãn xa hơn). Từ đất, lưới sóng này được gọi là mạng lưới Hartman hay mạng lưới H. Vậy những đặc trưng chính xác của mạng lưới này là gì?





Trước tiên, mạng lưới này gồm những lực đạo (ligne de force) hướng về bốn phương trời. Các lực đạo nằm thẳng góc với nhau tạo thành một tấm lưới mà mỗi ô lưới (hình chữ nhật) có kích thước chừng 2m theo chiều Bắc-Nam và 2,5m theo chiều Đông-Tây. Bề dày của các lực đạo này là 21cm, chúng dựng đứng thẳng góc với bề mặt của trái đất tạo thành những bức tường vô hình cao luc-daovà vượt qua tất cả các chướng ngại trên mặt đất, thế đất, công thự. Thực tế, bức xạ của lòng đất là bức xạ gần như tự nhiên dâng lên từ đất dưới hình dạng của những bức tường mịn màng và không thể thấy được, bề dày độ 21 cm, lên cao thật cao, ngay cả ở tầng thứ 18 của một toà nhà cao tầng, người ta còn có thể xác định vị trí của chúng (nhưng lưu ý, càng lên cao, thì vùng trung tính càng thu hẹp lại, vì vậy càng ở gần mặt đất càng tốt). Cần nói thêm rằng, càng có nhiều lớp thẳng đứng, thì mạng lưới Hartman càng có nhiều lớp nằm ngang, chúng khởi động vào khoảng 60 cm từ mặt đất.
Sự cấu tạo của thế đất, sự hiện diện của dòng nước, các phay địa chất, các dây cáp, các khối từ trường quan trọng, các bức xạ hay mọi dị thường có thể biến đổi sự đồng thể hoá (déshomogénéisation) của khu vực, kể cả mạng lưới Hartman: các lực đạo bị lệch và các ô chữ nhật có thể thay đổi theo chiều dài từ 2 đến 3,5m và chiều rộng thay đổi từ 1,8m đến 2,5 m. Theo nguyên tắc, tại một vùng trung tính, mạng lưới toàn cầu là một mạng lưới chặt chẽ giữa các mắc, trừ trường hợp nếu có những sóng nguy hại khác hiện ra theo chiều thẳng đứng. Nhưng địa từ trường của lực đạo của mạng Hartman giao nhau tạo thành các gút địa sinh bệnh. Tính chung, cứ 4 điểm cho mỗi hình chữ nhật. Theo chiều thẳng đứng của các nút địa sinh bệnh này xuất hiện một sóng độc hại vừa gây rối loạn vừa mang tính chất lâu dài.

Người Trung Hoa cổ gọi chúng là”các lối đi của ma quỷ”. Qua hình dưới đây, bạn có thể ghi nhận tại những giao điểm của những lực đạo của mạng lưới là những gút được gọi là gút Hartman, những gút được các nhà địa sinh học gọi là “những điểm gây bệnh từ lòng đất” (géopathogènes) Chúng hợp thành những hình vuông với cạnh xấp xỉ là 21 cm, đó là nơi có yếu tố nguy hại cao nhất. Như thế có nghĩa là những nơi đó có khả năng tạo thuận lợi cho bệnh phát sinh hay bệnh tiến triển. Những nơi giao nhau của lực đạo này được gọi là gút lưới, còn được gọi là gút Hartman hay gút H. Tại những nơi giao nhau này, sựrung động cực kỳ thấp.

Vì thế nhất thiết phải tránh những gút đó. Vùng trung tính là vùng tốt, nếu không bị nhiễu độc hại khác, là vùng nằm ở giữa các ô lưới này. Đây là điểm mà người ta có thể hoàn toàn đặt giường ngủ

Cơ sở khoa học của mạng lưới Hartman qua các cuộc thí nghiệm
Nhiều thí nghiệm trên động vật được thực hiện trong labo: nhà địa sinh học nổi tiếng Rémy Alexandre kể lại chuyện này trong tác phẩm của Ông tựa là Giường ngủ của bạn đặt đúng chỗ tốt chưa ? Nội dung như sau :”Ở Đức, Bác sĩ Hartman và Bs Jenny đã thực hiện trong labo những thí nghiệm trên 14.000 con chuột bạch trong 12 năm. Cuộc thí nghiệm bao gồm nhốt các con chuột cùng gốc, cùng tuổi, cùng trọng lượng trong một chỗ trung tính nào đó, và nhốt một số khác trên nơi gút lưới, gút H. Các chuột trong vùng trung tính sống yên lành trong suốt thời gian thử nghiệm, chúng giữ được bộ lông đẹp và sinh sản ra hậu duệ


của chúng 30% nhiều hơn các chú chuột nhốt nơi các giao điểm. Các chú chuột ở các gút này thường xuyên xao động và tìm cách chui trốn trong các góc gần với vùng trung tính, bộ lông của chúng thưa ra, chúng kêu ban đêm, gặm nhấm đuôi của mình, xé ăn các con nhỏ. Sau 40 ngày của mỗi đợt thử nghiệm, mổ xác chúng, người ta phát hiện thật nhiều khối u. Phân chất cho thấy độ pH trong máu của số con vật này biến đổi thành vùng đầy chất kích thích.” Điều đó, than ôi, với con người cũng thế nếu con người thường xuyên lưu trú trên những gút độc hại đó…
Theo dòng thời gian, địa sinh học đã trở thành một môn khoa học thực sự. Nhiều nhân vật nổi tiếng cũng đã từng ứng dụng địa sinh học. Như thế, công việc của họ là phân tích một cách hợp lý tất cả những tham số xác thực tại một chỗ ở: vị trí (nền nhà, tầng hầm – móng), kiến trúc, xây cất công trình … để loại trừ những ảnh hưởng tai hoạ có thể có ở những nơi đó. Họ cũng có thể giữ vai trò cố vấn cho một gia chủ để xây cất một cách hoàn hảo ngôi nhà mới.
Trong phần tiếp theo, chúng tôi sẽ đi sâu và giúp cho các bạn làm thế nào để xây dựng và sắp xếp ngôi nhà của mình một cách lành mạnh, chẳng hạn như chọn nơi thích đáng để đặt giường ngủ, để có thể tránh tất cả những sai lầm trong tầm ảnh hưởng của điện, v.v…
Chúng tôi sẽ chỉ dẫn cho các bạn những phương cách giản đơn, thực tiễn và trong tầm tay của các bạn để tự phòng vệ và chống lại những sóng đang gây hại cho tiến trình tốt đẹp của sự sống chúng ta trên quả đất.
( Nguyễn Minh Trí – DS. Lê Văn Giàu)

5/ Chỉ số Năng Lượng Sinh Học - Bovis

Để đo năng lượng sinh học của người, động thực vật hay địa sinh học. Các nhà nghiên cứu năng lượng sinh học trên thế giới (chuyên gia cảm xạ học, chuyên gia năng lượng sinh học) luôn dùng tới chỉ số đo có tên gọi là Bovis.
Vậy chỉ số đo Bovis là gì ?.
Chỉ số Bovis trong công phu tu luyện tập thiền cao nhất là bao nhiêu ?
Chỉ số Bovis của cơ thể con người bao nhiêu là tốt ?
Chỉ số Bovis của một số vật thể, như của khu đất ảnh hưởng đến sức khỏe và bệnh tật.
Một người trung bình phát ra 15.000 Bovis nhưng nếu có công phu luyện tập thiền thì chỉ số Bovis có thể lên tối đa 40.000 Bovis, điều đó nói lên khả năng trị liệu chữa bệnh ở mức độ cao.
Chỉ số Bovis trong công phu tu luyện tập thiền cao nhất là bao nhiêu ?
Các Thiền sư, các hành giả, các học viên luyện tập qua các phương pháp Thiền nhận năng lượng vũ trụ - Nhân điện- Yoga - Dưỡng sinh trường Sinh học, cảm xạ học ...thì cơ thể có chỉ số Bovis tăng rất cao, sự tăng nhanh chóng tùy theo sự tu luyện của mình, tùy theo cấp học cao thấp mà sự tăng chỉ số Bovis cũng có sự khác nhau.
Máy đo Địa từ trường (Géomagnétomètre), máy Bovis Biometer dùng đơn vị chỉ số n là Bovis. Thông thường các nhà Ðịa Sinh Học hay dùng từ ngữ: “chỉ số Bovis”. Như vậy chỉ số này nói lên điều gì? 

Chỉ số Năng Lượng Sinh Học - Bovis
Để đo năng lượng sinh học của người, động thực vật hay địa sinh học. Các nhà nghiên cứu năng lượng sinh học trên thế giới (chuyên gia cảm xạ học, chuyên gia năng lượng sinh học) luôn dùng tới chỉ số đo có tên gọi là Bovis. Chỉ số Bovis được lấy theo tên của nhà vật lý học người Pháp có tên là Antoine Bovis. Ông không chỉ là nhà vật lý nổi tiếng mà còn là một nhà cảm xạ, một nhà năng lượng cảm ứng giỏi của thế kỷ 20.
1. Chỉ số đo năng lượng của địa sinh học được lấy từ: 0 đến 20.000 đơn vị Bovis.
2. Chỉ số đo năng lượng của người, động vật được tính từ : 0 đến 400.000 đơn vị Bovis.
Đây là những chỉ số cơ bản được áp dụng vào thế kỷ 19 và thế kỷ 20. Bước sang thế kỷ 21, Các chuyên gia cảm xạ học của nhiều nước trên thế giới như: Balan, Bỉ, Đức , Mỹ…..đã nghiên cứu năng lượng sinh học trên hàng triệu con người và đã thấy rằng: chỉ số đo năng lượng sinh học ở người cần áp dụng từ: 0 đến 100.000 đơn vị Bovis. Trong những trường hợp mà cơ thể có năng lượng đặc biệt thì chỉ số Bovis này có thể được sử dụng từ: 0 đến 1.000.000 đơn vị Bovis. Với những nơi có năng lượng địa sinh học đặc biệt, sẽ lấy chỉ số đo từ: 0 đến vô cực.
Chỉ số Bovis được lấy theo tên nhà vật lý Pháp Antoine Bovis. Ông đã đưa ra chỉ số này trong khi tiến hành khảo sát kim tự tháp Ai Cập trong những năm 1930.
Chỉ số Bovis dùng để đo “sức khỏe”, ”sức sống” tự nhiên của vật thể hữu cơ, đo năng lượng tự nhiên, sóng dao động của quả đất. Năng lượng này được gọi là “biophoton” tức là phân tử ánh sáng mặt không nhìn thấy được. Thứ năng lượng này là cần thiết để duy trì sự sống trên quả đất. Ðó là sự cân đo trực giác của những nhà cảm nhận năng lượng, của những người có công năng bẩm sinh họăc rèn luyện công phu.
Muốn đo được chính xác bằng phương pháp trực giác (intuition), người đó phải vô thức hoàn toàn, thực hiện nguyên lý của lão tử “không mà có”, các nhà cảm nhận năng lượng đã thực hiện một phương pháp rất hiệu quả đó là phương pháp lập trình hệ thống cảm nhận năng lượng chính xác tối đa.
Cho đến nay chưa có máy móc gì nhiều để đo chỉ số Bovis trực tiếp, giá máy rất đắt. Song cũng vẫn có cách đo chỉ số Bovis gián tiếp thật đơn giản với chi phí thấp, bằng cách người ta có dùng một số liệu pháp cộng hưởng song song với hình ảnh của Cropcircles….
Tóm lại, hiện nay chúng ta cũng có cách đo chỉ số Bovis cho con người và vật chất khác, bằng các phương tiện khác như dùng con lắc, cảm xạ đồ, Hào Quang Phổ .. rồi dựa vào đó mà luận tính ra chỉ số Bovis một cách dễ dàng. 
Sau đây là chỉ số Bovis của một số vật thể:
Chỉ số Bovis càng cao thì sức khỏe càng tốt. Nếu một người chỉ có chỉ số Bovis < 5000 thường là sức khỏe yếu, bệnh tật.
Năng lượng tối thiểu cần thiết cho con người từ 6500 đến 10.000 Bovis hay hơn chút ít.
Một người trung bình phát ra 15.000 Bovis nhưng nếu có công phu luyện tập chỉ số Bovis có thể lên tối đa 40.000 Bovis, điều đó nói lên khả năng trị liệu ở mức độ cao. (luyện tập qua các phương pháp Thiền - Khí công - năng lượng vũ trụ - Nhân điện...thì cơ thể có chỉ số Bovis tăng rất cao nhanh chóng giúp tăng cường sự đề kháng của cơ thể, giảm thiểu được bệnh tật. Ngoài ra, người có chỉ số Bovis cao sẽ có khả năng hỗ trợ chữa bệnh cho nhiều người khác rất hữu hiệu )
Chỉ số Bovis cơ thể con người:
Chỉ số Bovis của cơ thể con người bao nhiêu là tốt ?

Từ 0 đến 1.000 rất có khả năng gây ung thư.
Từ 1.000 đến 3.000 bệnh nặng
Từ 3.000 đến 5.000 sức khỏe yếu, bệnh thường gặp và hay mắc phải
Từ 5.000 đến 6.400 dưới bình thường một ít.
Từ 6.000 đến 6.500 bình thường.trung bình, khỏe mạnh
Từ 6.500 đến 9.000 tốt.
Từ 9.000 đến 12.000 khá tốt 
Từ 12.000 đến 14.000 rất tốt, xúc cảm, thuận lợi sức khỏe
Từ 14.000 đến 18.000 trí tuệ.
Từ 18.000 đến 20.000 khí lực tốt.
Từ 20.000 trở lên có công năng rất tốt.

Một người trung bình phát ra 15.000 Bovis nhưng nếu có công phu luyện tập các pháp môn thiền định, như Năng Lượng Vũ Trụ - Khí công... chỉ số Bovis có thể lên tối đa 40.000 Bovis,

Chỉ số Bovis của đất đai, chỗ ở (nhà cửa):

Chỉ số Bovis của một số vật thể, như của khu đất ảnh hưởng đến sức khỏe và bệnh tật

- Từ 0 đến 1.000 đất đai nằm trên giao điểm địa từ trường họăc giao điểm của mạch nước ngầm (còn gọi là căn nhà ung thư, căn nhà có tử khí).
- Từ 1.000 đến 3.000 vùng đất có tử khí là giao điểm của mạng lưới địa từ trường - đũa dạt ra - con lắc quay ngược chiều kim đồng hồ (con gọi là căn nhà ly dị, đất sinh bệnh nặng, bệnh tiên thiên).
- Từ 3.000 đến 5.000 vùng đất có âm khí, đây là giao điểm của mạng lưới từ trường - đũa dạt ra - con lắc quay thuận (còn gọi là căn nhà bệnh tật, đất gây ra sự hao hụt năng lượng, sinh mệt mỏi thường xuyên).
- Từ 5.000 đến 6.500 có mức độ năng lượng vật lý dưới trung bình.
- Từ 6.500 là năng lượng vật lý trung bình. tương đối khỏe mạnh
- Từ 6.500 đến 9.000 có mức độ năng lượng vật lý khá tốt,sinh khí khá tốt, địa điểm đạt yêu cầu
- Từ 9.000 đến 12.000 đất rất tốt
- Từ 12.000 đến 18.000 đất vượng khí
- Từ 18.000 đến 20.000 đất long mạch, năng lượng vật lý thật tốt vượt lên tỷ lệ này thì có khả năng sinh tồn cao.
Tu Luyện, tập Khí công, Thiền định sẽ giúp chúng ta quân bình và tăng chỉ số Bovis. Đặc biệt là người luyện tập sau một gian có thể là 10 - 20 năm có thể tự khai mở được 6 Luân xa thì chỉ số Bovis sẽ cao trên từ 18.000 đến 30.000 Bovis nên sẽ tránh được nhiều bệnh tật. Chỉ số Bovis tăng là biểu hiện Năng lượng sinh học trong cơ thể tăng.
Nếu ta có nhân duyên được người có khả năng giúp chúng ta kích hoạt, khai mở 6 Luân xa thì việc tăng chỉ số Bovis sẽ tăng nhanh chóng trong một thời gian rất ngắn trong vòng vài tuần, vài tháng mà thôi.

Nếu người có năng lực giúp chúng ta trong việc kích hoạt 6 Luân xa, thì chỉ trong vòng vài phút là xong. Sau đó, người nào kiên trì tu tập khí công -Thiền định thì chỉ số Bovis sẽ lên đến 40.000 là một điều rất bình thường, khi đó Tâm Thân sẽ an lạc, sẽ có một đời sông Hạnh phúc thật sự.
( Sưu tầm - dienbatn )
( Xin xem tiếp bài 23 - dienbatn )

Bài viết liên quan tại chuyên mục:NGHIÊN CỨU PHONG THUỶ

Không có nhận xét nào:

Đặt mua Website này: 100.000 Vnđ - Liên hệ: Click here