ỨNG DỤNG KỲ MÔN ĐỘN GIÁP TRONG VIỆC XÂY CẤT MỘ PHẦN.
PHẦN 5. MỘT SỐ KIẾN THỨC CẦN CÓ SAU KHI ĐÃ LẬP ĐƯỢC BẢNG THẤU ĐỊA KỲ MÔN.
( Phần này dienbatn viết theo tư liệu từ cuốn : KỲ MÔN ĐỘN GIÁP BÍ KÍP TOÀN THƯ và cuốn KIM HÀM NGỌC KÍNH. )
2/ TRỰC PHÙ - TRỰC SỬ.
Luận Trực phù
Trực phù ngôi ấy Đại tướng quân,
Bản cung truyền cát lập công huân.
Ba cung kiểm điểm không hung ngại
Xông xáo Tây Đông chẳng ngại ngần.
Lại đem Niên Mệnh mà tham bác,
Không gặp Hình Xung, không họa xâm,
Thiên, Địa, Đằng, Âm, Chu, Cửu Lục,
Kẻ địch là ai, ai kẻ thân.
Cửu Địa Thiên hình phòng đến cướp,
Cửu Thiên hại cách chớ xua quân,
Trực phù chớ để ngày giờ hại,
Phương vị nên sinh Đại tướng quân (Tức Trực phù).
XEM CHÔN CẤT
Trực phù
Phù : mồ mả, long thần kết tụ, hình thế khởi phục hướng về.
Xà : đường đi, gò đống, đôi ngạn dẫn mạch.
Âm : huyệt thuận khởi gió, bên hữu cánh cung cong vào.
Hợp : hướng sa đường có cây cao, tả hữu có cánh cung.
Câu, bạch : thế trong có hộ sa củng đối, thế ngoài có hữu sa.
Chu, huyền : minh đường có nước từ xa đến, chủ sơn là lai long.
Địa : huyệt oa, có tĩnh rút xuống.
Thiên : hướng về phương có thế trướng che.
Luận trực phù
Trực phù xem mất, Hỏa thế hình,
Mộc Hỏa Kim Thổ Thủy loại tình.
Vượng Tướng Hưu Tù Cô Hư gặp,
Lấy cung mà xét định cho rành.
Thái âm huyệt tình, Cửu địa huyệt,
Minh đường ắt trước, Chu Xà trình.
Hướng che bình chướng, Cửu thiên hỏi,
Chủ Sơn sa tìm, Huyền Bạch thành.
Dụng thần không phạm Hình Cô khắc,
Được Hợp Sinh, chôn thế đại hanh
Luận Trực sử
Trực sử được thời dễ tiến lên,
Địa Môn mà cát chia chính biên,
Xét xem Chủ Phó Niên và Mệnh,
Môn cát thấy trong đắc thắng liền,
Ví gặp Cương La và phản phục,
Thái công ngầm trợ cũng vô duyên.
XEM CHÔN CẤT
Trực sử
Hưu : Nhâm Tý Quý, Hoàng tuyền tại Thìn, kỵ ngày giờ Mậu Thìn
Sinh : Sửu Cấn Dần, Hoàng tuyền tại Dần, kỵ ngày giờ Bính Dần
Thương : Giáp mão Ất, Hoàng tuyền tại Thân,.............................Canh Thân.
Đỗ : Thìn Tốn Tỵ, ......................................Dậu.... ............................Tân Dậu.
Cảnh : Bính Ngọ Đinh....................................Hợi, ............................Kỷ Hợi.
Tử : Mùi Khôn Thân...................................Mão................................Ất Mão.
Kinh : Canh Dậu Tân....................................Tỵ....................................Đinh Tỵ.
Khai : Tuất Kiền Hợi ....................................Ngọ.................................Bính Ngọ.
Luận trực sử
Trực sử chia xem Sơn với Hướng,
Ở trong chuyển triết nhiều tình huống.
Hưu Tù, Phi Vượng cũng nên chôn,
Vượng bay Hưu Phế đúng động thương.
Lại đem Phi Phục xét xem tường,
Đây đó không thương, Sơn Hướng chuộng.
Đáng kỵ Nhật Thời, Sát diệu phùng,
Đoan đích bên trong có thứ trạng (trạng thái này).
Đừng để cho Sử gặp cung này,
Không gấp đổi rời, tai nạn vướng.
3/ CÁC CỬA ( BÁT MÔN ).
HƯU - SINH - THƯƠNG - ĐỖ - CẢNH - TỬ - KINH - KHAI sẽ di chuyển xoay vòng khác lúc ban đầu.
Xem mồ mả.
Đất mồ mả là nơi người chết ở, lành thì được phúc, hung thì có họa. Bởi vì linh hồn tổ tiên ở nơi Suối vàng mà yên thì con cháu hưng vượng, không yên thì con cháu bại vong.
Nếu chưa táng mà xem trước thì phép này chuyên trách cứ vào cửa Tử và sao ở 2 bàn Thiên Địa mà quyết.
Lấy Sao Địa bàn ở cung cửa Tử là người chết, Sao thiên bàn ở cung cửa Tử là người sống. Cung cửa tử có ba kỳ cùng với sao Địa bàn sinh nhau, hòa nhau, không khắc chế nhau thì người chết yên. Sao Địa bàn sinh sao Thiên bàn, sao Thiên bàn được Ba kỳ thì người còn người mất đều yên lành, sau rồi hưng vượng.
Ví cung cửa Tử cùng với sao Địa bàn cung khắc nhau thì người sống, người chết đều không yên. Sao Địa bàn khắc sao Thiên bàn, không có Kỳ môn hộ trì thì người sống người chết đều hung, cửa Tử phản ngâm thì rời đi nơi khác sẽ cát. Cửa Tử gặp Không vong thì đất không có khí, sơ nhà báu người chết.
Lại lấy Can gì, thần gì, cách gì mà suy. Được sao cát, can cát, sinh vượng thì cát. Thần hung, cách hung, can khắc chế thì hung.(Đây là nói sao Thiên bàn. Đáng ngờ là nói sao của 2 bàn trên dưới. Vậy nên đợi gặp bậc cao minh mà hỏi).
1/ CỬA HƯU.
Cửa Hưu (Cửa lành) khắc ứng
Cửa Hưu rất thích tụ tiền nong,
Trâu ngựa heo dê tự đến đông,
Dựng gả phương Nam nơi xứng ý.
Thăng quan tiến chức ngự đài cung.
Lại thêm sản nghiệp người âm Vũ.
Yên ổn trong nhà tai họa không.
Hỏi rằng: Cửa Hưu thuộc Thuỷ, không vật gì không bị giết, nơi sương tuyết lạnh lẽo, chỉ toàn khí âm, là tinh của Huyền Vũ, ba sáng không chiếu tới, là cung quỷ tà náu hình, thì còn lấy gì làm cát?
Cù Tiên đáp rằng: Nước cửa Hưu là nơi âm cùng, thực tại là cung Bình Báu. Vạn vật lấy nước làm nước sinh sát để phát khí dương ra ngoài, lấy nước làm khí chết, để thu gom về gốc mà dấu tinh ở trong. Tý là nơi 1 dương vừa trở lại, cỏ cây gặp đó mà nẩy mầm, là cửa lật gốc về nguồn nên lấy đó làm cát.
Cửa Hưu hợp với Kỳ Đinh, dưới có Thái Âm là Nhân độn, được tinh hoa của sao che chở, trăm việc đều cát. Vượng ở cung chấn. Tướng ở cung Khảm, sinh ở Kiền Đoài đều cát cả. Ở cung Khôn, Cấn và giữa, bị Thổ khắc chế. Ở Tốn là vào Mộ, ở Ly là phản ngâm, đều không lợi. Nếu vào yết cửa quý, lấy hoà hợp thì trăm việc đều tốt. Ra đi 50 dặm gặp rắn chuột, vật đen trong nước làm ứng.
Cửa Hưu:
Cửa Hưu chín chín khí đầy nhà,
Con cháu giầu sang đất cát đa.
Tế lễ, kinh doanh, nhà đến ở,
Phó quan, rời đổi tốt đều hòa.
Đẻ lành, lánh kín, người hưng thịnh,
Bắc vượng ngày Đông, sáu một qua.
Nam Bắc hôn nhân, quen thuộc cả,
Lại qua sáu súc (giống nuôi), trật quan gia.
Cửa Hưu, Thần Thủy, Tham lang.
Công cán cầu mong có cửa Hưu
Cầu tài, xin yết quý nhân chiều
Muốn mau cần có sao theo cát,
Đã thấy Hưu môn, ăn uống có
Giá thú, ra vào, năm Phúc trao
Vào ra, rong ruổi, mạnh mau sao
Lợi lộc, may mừng, hả biết bao
Hưu môn cần được soi vào cửa
2/ CỬA SINH.
Xem mồ mả.
Đất mồ mả là nơi người chết ở, lành thì được phúc, hung thì có họa. Bởi vì linh hồn tổ tiên ở nơi Suối vàng mà yên thì con cháu hưng vượng, không yên thì con cháu bại vong.
Nếu chưa táng mà xem trước thì phép này chuyên trách cứ vào cửa Tử và sao ở 2 bàn Thiên Địa mà quyết.
Lấy Sao Địa bàn ở cung cửa Tử là người chết, Sao thiên bàn ở cung cửa Tử là người sống. Cung cửa tử có ba kỳ cùng với sao Địa bàn sinh nhau, hòa nhau, không khắc chế nhau thì người chết yên. Sao Địa bàn sinh sao Thiên bàn, sao Thiên bàn được Ba kỳ thì người còn người mất đều yên lành, sau rồi hưng vượng.
Ví cung cửa Tử cùng với sao Địa bàn cung khắc nhau thì người sống, người chết đều không yên. Sao Địa bàn khắc sao Thiên bàn, không có Kỳ môn hộ trì thì người sống người chết đều hung, cửa Tử phản ngâm thì rời đi nơi khác sẽ cát. Cửa Tử gặp Không vong thì đất không có khí, sơ nhà báu người chết.
Lại lấy Can gì, thần gì, cách gì mà suy. Được sao cát, can cát, sinh vượng thì cát. Thần hung, cách hung, can khắc chế thì hung.(Đây là nói sao Thiên bàn. Đáng ngờ là nói sao của 2 bàn trên dưới. Vậy nên đợi gặp bậc cao minh mà hỏi).
1/ CỬA HƯU.
Cửa Hưu (Cửa lành) khắc ứng
Cửa Hưu rất thích tụ tiền nong,
Trâu ngựa heo dê tự đến đông,
Dựng gả phương Nam nơi xứng ý.
Thăng quan tiến chức ngự đài cung.
Lại thêm sản nghiệp người âm Vũ.
Yên ổn trong nhà tai họa không.
Hỏi rằng: Cửa Hưu thuộc Thuỷ, không vật gì không bị giết, nơi sương tuyết lạnh lẽo, chỉ toàn khí âm, là tinh của Huyền Vũ, ba sáng không chiếu tới, là cung quỷ tà náu hình, thì còn lấy gì làm cát?
Cù Tiên đáp rằng: Nước cửa Hưu là nơi âm cùng, thực tại là cung Bình Báu. Vạn vật lấy nước làm nước sinh sát để phát khí dương ra ngoài, lấy nước làm khí chết, để thu gom về gốc mà dấu tinh ở trong. Tý là nơi 1 dương vừa trở lại, cỏ cây gặp đó mà nẩy mầm, là cửa lật gốc về nguồn nên lấy đó làm cát.
Cửa Hưu hợp với Kỳ Đinh, dưới có Thái Âm là Nhân độn, được tinh hoa của sao che chở, trăm việc đều cát. Vượng ở cung chấn. Tướng ở cung Khảm, sinh ở Kiền Đoài đều cát cả. Ở cung Khôn, Cấn và giữa, bị Thổ khắc chế. Ở Tốn là vào Mộ, ở Ly là phản ngâm, đều không lợi. Nếu vào yết cửa quý, lấy hoà hợp thì trăm việc đều tốt. Ra đi 50 dặm gặp rắn chuột, vật đen trong nước làm ứng.
Cửa Hưu:
Cửa Hưu chín chín khí đầy nhà,
Con cháu giầu sang đất cát đa.
Tế lễ, kinh doanh, nhà đến ở,
Phó quan, rời đổi tốt đều hòa.
Đẻ lành, lánh kín, người hưng thịnh,
Bắc vượng ngày Đông, sáu một qua.
Nam Bắc hôn nhân, quen thuộc cả,
Lại qua sáu súc (giống nuôi), trật quan gia.
Cửa Hưu, Thần Thủy, Tham lang.
Công cán cầu mong có cửa Hưu
Cầu tài, xin yết quý nhân chiều
Muốn mau cần có sao theo cát,
Đã thấy Hưu môn, ăn uống có
Giá thú, ra vào, năm Phúc trao
Vào ra, rong ruổi, mạnh mau sao
Lợi lộc, may mừng, hả biết bao
Hưu môn cần được soi vào cửa
2/ CỬA SINH.
Cửa Sinh ( Cửa sống) khắc ứng
Cửa Sinh xem được tốt tươi lành.
Người của cùng tăng, mọi vật hanh.
Tý Sửu năm nay, ba bảy tháng (tháng 3, tháng 7)
Trâu, dê, lừa, ngựa chật môn đình.
Lúa, tằm, vải vóc, đều dư dật.
Áo tái, con trai, chốn đế kinh.
Thêm ruộng phương Nam Thương khách (người âm Thương) tiến.
Cháu con hưởng lộc vị công khanh.
Hỏi rằng:
Cửa Sinh ở Cấn Thổ là phương Thiếu Dương, lấy gì bảo cát?
Cù Tiên đáp rằng: Cấn là Dần vị. Trời mở ở Tý, Đất giải ở Sửu, người sinh ở Dần. Khi Trời đến đó, ba Dương đều đủ, mở Thai. Do đó mà vạn vật đều sinh. Dương hồi khí chuyển, tình trời đất muốn sinh, rộng đến muôn vật mà đạo nhân sinh ra vậy, vì thế mà là cửa rất cát.
Cửa Sinh với Kỳ Ất, dưới là cung Cửu Địa, là Địa độn, là tinh Nhật che chở, cát. Hợp với Kỳ Bính là tinh Nguyệt che chở và là Thiên độn. Hợp với Kỳ Đinh là được tinh Sao che chở và là Nhân độn, trăm việc đều cát.
Được cửa Sinh, nên thăng quan, xây dựng, giá thú, cầu tài, chăn nuôi đều rất cát. Đi ra ngoài, 60 dặm gặp quý nhân xe ngựa, rất cát. Đến 2 cung Kiền Đoài là vượng. Đến cung giữa là tướng. Đến Khảm là Bách. Đến Chấn bị Mộc khắc chế. Đến Tốn là vào Mộ, đều không lợi. Sinh ở cung Ly, cát.
Cửa Sinh:
Cửa Sinh tám tám, khí đây sao,
Hung sát đều hàng, Thổ đắp cao.
Đợi gái mang tiền, người gửi vật,
Từ nay phú quý, cháu con trào.
Ba năm, định có sinh con quý,
Đi lại ngoài châu, tiền của vào.
Giá thú, gieo mầm và dựng đổi,
Tiêu tai, phát phúc lạ lùng sao.
Cửa Sinh, Thần Thổ, Tả Phù
(Cửa này, những việc tranh tài, vào quan, giấy tờ, giá thú, lánh chạy, đi 20 dặm tất thấy chim bay lại đón thì đại cát)
Vào ra mà gặp được môn Sinh
Sao cát lâm thêm vạn sự thành
Ví có hung thần cùng cách vắng
Cầu tài sẽ được xứng tâm tình
Cửa Sinh đã thấy kinh doanh lợi.
Cửa Thương thôi khỏi nói, Trời chôn người chết uổng. Chồng vợ gặp tai ương. Năm ròng tháng bệnh vương. Nhọt sảy đi không được. Tin đợi chờ không có. Chân què gẫy máu loang. Ngoài ra xấu đủ đường.
Hỏi rằng: Cửa Thương thuộc Mộc, chính gặp thời Xuân Phân, mầm non chồi ra, nên nói là cát mà lại bảo là hung, xin nói lại cho rõ.
Cù Tiên đáp rằng: Mộc cửa Thương gặp đúng khí Xuân Phân, tinh dịch từ trong mà ra, phát dương ra ngoài, đến nỗi gốc rễ tiết ra quá nhiều. Đó gọi là ngoài Hoa, mà trong Hư, không thắng nổi khó khăn. Huống chi tháng 2, mầm non không đương nổi sương lạnh, do đó mà gọi là Thương, mà là hung.
Cửa Thương được Kỳ thì chỉ có các việc đuổi bắt kẻ chạy trốn, trộm cắp, đi săn, đánh cá, đòi nợ, cờ bạc, vui đùa là cát. Nếu lên quan, ra đi, hôn nhân, buôn bán, xây dựng, chôn cất, đều không lợi. Rất hung.
Cửa Thương:
Cửa Thương khí đoản, số ba ba,
Dần Mão vượng phương, âm Dốc pha.
Săn lưới, đi chinh, đòi lấy nợ,
Còn hay cờ bạc đuổi người qua.
Quant ư, cãi cọ, tang chồng chất,
Sáu súc toi luôn, trộm cắp sà.
Chồng vợ choảng nhau, còn mắt bệnh,
Ba tuần đẻ nạn, họa đào pha.
Tuổi tên chết mất và phong chứng,
Hổ rắn thương người, ở khó qua.
Cửa Thương, Thần Mộc, Lộc Tồn
(Gặp cửa này, khi ra đi tất thấy Quái lạ kinh hoảng, đổ máu)
Xuất nhập, cầu tài, gặp cửa Thương
Đà thêm sao cát cũng nan đương
Trước thì bệnh tật cùng tai họa
Thân phải phòng lo có tật ương
Thương chiếu, luôn luôn tai tiếng mắc
Thì ra ngoài cửa họa tai vương
Chỉ duy vây bắt là vừa ý
Ngoại giả sơ lo khó thể lường
Trăm việc lưu thông, dạ hởi hanh
Sinh hiện, ra vào hoan hỷ có
Kinh doanh tốt nhất, khí mừng sinh.
Cửa Sinh xem được tốt tươi lành.
Người của cùng tăng, mọi vật hanh.
Tý Sửu năm nay, ba bảy tháng (tháng 3, tháng 7)
Trâu, dê, lừa, ngựa chật môn đình.
Lúa, tằm, vải vóc, đều dư dật.
Áo tái, con trai, chốn đế kinh.
Thêm ruộng phương Nam Thương khách (người âm Thương) tiến.
Cháu con hưởng lộc vị công khanh.
Hỏi rằng:
Cửa Sinh ở Cấn Thổ là phương Thiếu Dương, lấy gì bảo cát?
Cù Tiên đáp rằng: Cấn là Dần vị. Trời mở ở Tý, Đất giải ở Sửu, người sinh ở Dần. Khi Trời đến đó, ba Dương đều đủ, mở Thai. Do đó mà vạn vật đều sinh. Dương hồi khí chuyển, tình trời đất muốn sinh, rộng đến muôn vật mà đạo nhân sinh ra vậy, vì thế mà là cửa rất cát.
Cửa Sinh với Kỳ Ất, dưới là cung Cửu Địa, là Địa độn, là tinh Nhật che chở, cát. Hợp với Kỳ Bính là tinh Nguyệt che chở và là Thiên độn. Hợp với Kỳ Đinh là được tinh Sao che chở và là Nhân độn, trăm việc đều cát.
Được cửa Sinh, nên thăng quan, xây dựng, giá thú, cầu tài, chăn nuôi đều rất cát. Đi ra ngoài, 60 dặm gặp quý nhân xe ngựa, rất cát. Đến 2 cung Kiền Đoài là vượng. Đến cung giữa là tướng. Đến Khảm là Bách. Đến Chấn bị Mộc khắc chế. Đến Tốn là vào Mộ, đều không lợi. Sinh ở cung Ly, cát.
Cửa Sinh:
Cửa Sinh tám tám, khí đây sao,
Hung sát đều hàng, Thổ đắp cao.
Đợi gái mang tiền, người gửi vật,
Từ nay phú quý, cháu con trào.
Ba năm, định có sinh con quý,
Đi lại ngoài châu, tiền của vào.
Giá thú, gieo mầm và dựng đổi,
Tiêu tai, phát phúc lạ lùng sao.
Cửa Sinh, Thần Thổ, Tả Phù
(Cửa này, những việc tranh tài, vào quan, giấy tờ, giá thú, lánh chạy, đi 20 dặm tất thấy chim bay lại đón thì đại cát)
Vào ra mà gặp được môn Sinh
Sao cát lâm thêm vạn sự thành
Ví có hung thần cùng cách vắng
Cầu tài sẽ được xứng tâm tình
Cửa Sinh đã thấy kinh doanh lợi.
3/ CỬA THƯƠNG.
Cửa Thương khắc ứngCửa Thương thôi khỏi nói, Trời chôn người chết uổng. Chồng vợ gặp tai ương. Năm ròng tháng bệnh vương. Nhọt sảy đi không được. Tin đợi chờ không có. Chân què gẫy máu loang. Ngoài ra xấu đủ đường.
Hỏi rằng: Cửa Thương thuộc Mộc, chính gặp thời Xuân Phân, mầm non chồi ra, nên nói là cát mà lại bảo là hung, xin nói lại cho rõ.
Cù Tiên đáp rằng: Mộc cửa Thương gặp đúng khí Xuân Phân, tinh dịch từ trong mà ra, phát dương ra ngoài, đến nỗi gốc rễ tiết ra quá nhiều. Đó gọi là ngoài Hoa, mà trong Hư, không thắng nổi khó khăn. Huống chi tháng 2, mầm non không đương nổi sương lạnh, do đó mà gọi là Thương, mà là hung.
Cửa Thương được Kỳ thì chỉ có các việc đuổi bắt kẻ chạy trốn, trộm cắp, đi săn, đánh cá, đòi nợ, cờ bạc, vui đùa là cát. Nếu lên quan, ra đi, hôn nhân, buôn bán, xây dựng, chôn cất, đều không lợi. Rất hung.
Cửa Thương:
Cửa Thương khí đoản, số ba ba,
Dần Mão vượng phương, âm Dốc pha.
Săn lưới, đi chinh, đòi lấy nợ,
Còn hay cờ bạc đuổi người qua.
Quant ư, cãi cọ, tang chồng chất,
Sáu súc toi luôn, trộm cắp sà.
Chồng vợ choảng nhau, còn mắt bệnh,
Ba tuần đẻ nạn, họa đào pha.
Tuổi tên chết mất và phong chứng,
Hổ rắn thương người, ở khó qua.
Cửa Thương, Thần Mộc, Lộc Tồn
(Gặp cửa này, khi ra đi tất thấy Quái lạ kinh hoảng, đổ máu)
Xuất nhập, cầu tài, gặp cửa Thương
Đà thêm sao cát cũng nan đương
Trước thì bệnh tật cùng tai họa
Thân phải phòng lo có tật ương
Thương chiếu, luôn luôn tai tiếng mắc
Thì ra ngoài cửa họa tai vương
Chỉ duy vây bắt là vừa ý
Ngoại giả sơ lo khó thể lường
Trăm việc lưu thông, dạ hởi hanh
Sinh hiện, ra vào hoan hỷ có
Kinh doanh tốt nhất, khí mừng sinh.
4/ CỬA ĐỖ.
Cửa Đỗ nguyên là gỗ, động vào, họa tiếp liền. Tháng năm Hợi Mão Mùi, gặp phải, ngục tù kề bên. Sống chết tan rời đó. Giống nuôi chết dịch ôn. Sai xương, đòn vấy máu. Hại đếncả đàn con.
Hỏi rằng: Cửa Đỗ là tượng Mộc, đến Hạ Đông là thời phồn thịnh, vốn là khí vượng, lấy gì mà bảo là hung?
Cù tiên đáp rằng: Cửa Đỗ dương Mộc, gặp Hạ Đông phát sinh ra ngoài, tân dịch tiết đi, khí dương can cực, một âm đang đến. Tính Mộc đến đó thì sức chùn lại, muốn thu gom thì không đủ sức thu gom, muốn sinh vượng thì lực đã cạn, lại không tiết được sức để nuôi cháu con ( dĩ thực= kỳ tử tôn), mà phải nấp giấu con ở nơi rắn chắc (kiên mật chi xứ) sợ rằng con có thể bị thương, cho nên gọi là cửa Đỗ (cửa đóng). Có hung nhỏ.
Cửa Đỗ là phương tàng hình, chỉ nên là nơi lánh tai nạn, lấp huyệt, đuổi bắt là cát. Các việc khác đều không lợi.
Cửa Đỗ:
Đỗ môn bốn bốn, ấy sao hung,
Tính mộc, phương nghiêng Dần Mão đông.
Đóng, dắt, ngăn dòng, nhiều lấp liếm,
Đuổi tà, đinh trộm, móc câu tròng.
Đi vong, trốn khó, thôi mong muốn,
Ẩn nấp, che thân, kín đáo vùng.
Đuổi mạnh, đi xa, thì lẽ đúng,
Riêng tư có thể giữ lâu cùng.
Những khi động dụng phòng quân trộm,
Tài tán, quan tư, ôn dịch xông.
Sét đánh, rắn thương, người ghẻ lở,
Nhà siêu, kho cháy, lại người vong.
Cửa Đỗ, Thần Mộc, Văn Khúc
(Gặp cửa này, nên xuất hành, xin yết Quý, cầu tài thì hay, nhưng gặp khắc lánh thì không hay).
Xét công cửa Đỗ mỗi khi dùng
Mà thấy môn trung thần cát cùng
Chè rượu tự nhiên lưu khách lại
Hân hoan, trăm việc có vui mừng
Đỗ môn từng thấy kinh doanh tốt
Xuất nhập xưa nay chửa giải lòng
Ẩn giấu nơi đây nên phải biết
Không nhờ cây gỗ chẳng sao xong.
Cửa tử nơi đây thật rất hung
Mạng người gặp phải hoạ sau lưng
Xoàng ra phải mất tiền hao của
Còn phải phòng tang tóc chập chùng.
Hỏi rằng: Cửa Tử thuộc Thổ, lại là phương của phần đêm sao hắc, khí Thu Đông, trời Đất tàn sát nặng nề. Từ đó mà đi, cửa hung. Sao hung, nên bỏ đi không dùng. Chả biết cửa này có còn dùng được việc gì không?
Cù Tiên đáp rằng: Cái hung của Cửa Tử là lúc Trời Đất mặc lòng ra oai tàn sát, cỏ mất màu sắc, cây trút rụng lá, cho nên là tượng hung. Nếu được Kỳ đến trợ thì những việc như đánh tội chết, bắt bớ, săn bắn cũng được tốt, đó là thuận theo lẽ trời là thế không bỏ được.
Cửa Tử:
Cửa Tử hai hai, tinh ngược ác,
Cấn Khôn Mậu Kỷ là phương được.
Lưới săn, giết chóc, phương này nên,
Tống táng, viếng tang thì cũng thích.
Xây dựng lo trên với kẻ bằng,
Tang trùng kẻ chết nhiều ngang ngược.
Cầu mong không lợi, chẳng nên cầu,
Động, thấy thua toi, quan mất chức.
Cửa Tử, Thần Thổ, Cự môn
(Cửa này nên đi săn, vây bắt, sát sinh ngàn chết, một sống. Đi 20 dặm bên Đi yết, cầu mưu vào cửa Tử đường tất thấy người tử thương là ứng)
Đi yết, cầu mưu vào cửa Tử
Cát thần thưa thót, Khôn bàn đủ
Tự mình ví chẳng chịu làm ngang (tác hoành sự)
Thì tất rồi ra thương vết đó
Cửa Tử, Đông Tây chẳng dám đi
Đọc tên đủ thấy không nên sự
Tử thương, ai oán được gì đâu
(Cửa này không nên ra cửa, lên quan,
Bậc thành không truyền lời dối trá
Cửa Kinh chủ tranh kiện. Người chết bệnh dịch ôn. Năm Thìn, tháng Hỏa tới, thân mình hoạ đến bên. Duy giấy tờ tranh kiện, bắt bớ, cờ bạc: nên. Ngoài ra thì hung cả. Gặp Kinh là phải kiêng.
Hỏi rằng: Cửa Kinh thuộc Kim, gặp tháng 8 lệnh Thu, muôn vật đều già, Trời Đất ra oai tàn sát muôn vật, cũng nên đó chăng?
Cù tiên đáp rằng: Cửa Kinh, khí tàn sát, vật loại già cỗi, vốn không khí sống cho nên hung. Nhưng mà trời đất còn long ưa sống (hiền sinh chi tâm), không muốn giết hết mầm tỏi, mầm lúa đông, cũng chẳng đã mà giết. Cửa này tuy hung, mà những việc như trình thơ, dâng kế lừa, bắt bớ, đặt nghi, phục binh đều cát, cũng chẳng nên bỏ.
Cửa Kinh:
Cửa Kinh không hóa khí là ngược,
Vượng ở Canh Tân Thân Dậu cước.
Vó lưới chăng cao, tụng ngục chờ,
Cửa công, hình kích, đều theo bước.
Trốn đi, lừa bắt, đều có công,
Bán chợ, tu doanh, thua lỗ trước.
Kiện tụng, kinh hoàng, tật dịch hưng,
Bại tù, quân giặc, chó dê chết.
Cửa Kinh, Thần Kim, Phá Quân
(Cửa này không nên ra cửa, lên quan,không cát, mọi việc đi 6-7 dặm tất thấy vật to lớn quái sợ là nghiệm)
Cầu tìm, chạy mất gặp Kinh môn
Người trốn, của tiền vẫn hãy còn
Lại được cát tinh không khắc chế
Thì người trốn lánh sợ bay hồn
Kinh môn nhất định là kinh sợ
Mọi việc ra vào tất phải sờn
Việc tốt thôi đi đứng nói đến
Ngồi nhà đừng động việc là hơn
Cửa Khai muốn biết chiêm làm sao?
Đầy tớ, trâu, dê, trăm buổi vào.
Đất cát, hôn nhân,tài lợi lắm.
Cửa nhà rộng rãi, của đầy kho.
Có thêm sản nghiệp người thường tiến.
Tị-Dậu-Sửu năm thêm miệng chào:
Con cháu ơn vua nhiều tập ấm
Đai vàng áo tía gội ơn cao
Hỏi rằng: Cửa Khai thuộc Kim, là lúc khí trời khô héo,là thời muôn vật tận cùng lấy gì bảo là cát?
Cù tiên đáp rằng: Cửa Khai là kim, là lúc muôn vật héo hết. Sao không biết muôn vật héo hết mà có sống lại. Cửa Khai thuộc Kiền, trong Kiền có Hợi. Kiền nạp Giáp Nhâm (thu mầm ở Nhâm). Kim động thì thủy sinh, sinh mà sinh muôn vật, cho nên giúp sống cho muôn vật lúc mới đầu. Lại là Thiên Môn ( cửa Trời), cho nên cát. Nếu gặp được kỳ Ất (gọi là Thiên Độn = ẩn Trời) là được tinh Nhật che chở. Hợp với kỳ Bính, là được tinh nguyệt che chở. Hợp với kỳ Đinh là được Thái Âm ( âm cả) che chở, mọi việc mưu đều nên, danh chính ngôn thuận. Dùng việc công 100 cái thì được 100 thái. Dùng việc tư tất bị người khác làm tiết lộ thì lại gặp hung cừu. Ưa tới Kiền Đoài là được khí tướng (khí khá). Vào cung Khảm thủy, Kiền thủy sinh nhau như mẹ ngoảnh lại con. Vậy nên là cát. Ra đi 4 dặm hoặc 40 dặm, thấy lợn chuột các loài ấy, 60 dặm gặp quý nhân đi xe ngựa, có rượu thịt. Vào cung cấn là vào Mộ. Vào cung Chấn là Bách (bức bách), lại là 4 khí. Vào cung Tốn là phản ngâm. Vào cung Ly thì Kim bị Hỏa khắc, không lợi.
Ra cửa Khai, 30 dặm, gặp quý nhân, cát. 40 dặm gặp lợn ngựa, có rượu thịt, cát.
Có kỳ Ất tới thì thấy Quý nhân mặc áo hồng.
Có kỳ Bính tới, thấy ông già chống gậy.
Có kỳ Đinh tới, thấy người mang vật bằng tre gỗ thì ứng cát.
Cửa Khai:
Cửa Khai sáu sáu khí đầy phè,
Yết kiến, cầu mưu, lợi lộc ghê.
Dựng cửa, xây nhà, quan chức tiến,
Ngoài về tiền lụa ngựa trâu dê.
Mật ong hầm chứa, hoạch phát tài,
Con cháu giàu sang, danh lợi đề.
Thân Dậu Canh Tân, Thu nguyệt vượng,
Bán buôn, sản xuất lợi Thu về.
Vây bắt nên tìm Tử lộ cường.
Muốn hỏi đi xa, Khai mở đó,
Cửa Hưu lợi buổi yết quân vương.
Cửa Thương đòi nợ đều vừa ý,
Cửa Đỗ còn khi lợi án tàng.
Kiện tụng, bắt vây, Kinh sẵn đó,
Rượu chè hiến kế Cảnh chân hương.
Yết Quý cầu quan dùng cửa Khai
Cầu tài, kiếm lợi cửa Hưu lai.
Lánh nạn, cầu quan Sinh đến đó,
Cửa Thương đòi nợ được như lời.
Tìm người kiếm bạn nên dung Cảnh,
Săn bắn lưới chài Tử đó rồi.
Bắt giặc lùng gian, kinh dùng được,
Đỗ môn chạy mất khó mong hồi.
Hỏi rằng: Cửa Đỗ là tượng Mộc, đến Hạ Đông là thời phồn thịnh, vốn là khí vượng, lấy gì mà bảo là hung?
Cù tiên đáp rằng: Cửa Đỗ dương Mộc, gặp Hạ Đông phát sinh ra ngoài, tân dịch tiết đi, khí dương can cực, một âm đang đến. Tính Mộc đến đó thì sức chùn lại, muốn thu gom thì không đủ sức thu gom, muốn sinh vượng thì lực đã cạn, lại không tiết được sức để nuôi cháu con ( dĩ thực= kỳ tử tôn), mà phải nấp giấu con ở nơi rắn chắc (kiên mật chi xứ) sợ rằng con có thể bị thương, cho nên gọi là cửa Đỗ (cửa đóng). Có hung nhỏ.
Cửa Đỗ là phương tàng hình, chỉ nên là nơi lánh tai nạn, lấp huyệt, đuổi bắt là cát. Các việc khác đều không lợi.
Cửa Đỗ:
Đỗ môn bốn bốn, ấy sao hung,
Tính mộc, phương nghiêng Dần Mão đông.
Đóng, dắt, ngăn dòng, nhiều lấp liếm,
Đuổi tà, đinh trộm, móc câu tròng.
Đi vong, trốn khó, thôi mong muốn,
Ẩn nấp, che thân, kín đáo vùng.
Đuổi mạnh, đi xa, thì lẽ đúng,
Riêng tư có thể giữ lâu cùng.
Những khi động dụng phòng quân trộm,
Tài tán, quan tư, ôn dịch xông.
Sét đánh, rắn thương, người ghẻ lở,
Nhà siêu, kho cháy, lại người vong.
Cửa Đỗ, Thần Mộc, Văn Khúc
(Gặp cửa này, nên xuất hành, xin yết Quý, cầu tài thì hay, nhưng gặp khắc lánh thì không hay).
Xét công cửa Đỗ mỗi khi dùng
Mà thấy môn trung thần cát cùng
Chè rượu tự nhiên lưu khách lại
Hân hoan, trăm việc có vui mừng
Đỗ môn từng thấy kinh doanh tốt
Xuất nhập xưa nay chửa giải lòng
Ẩn giấu nơi đây nên phải biết
Không nhờ cây gỗ chẳng sao xong.
5/ CỬA CẢNH.
Cửa Cảnh (Cửa Lớn) Khắc ứng
Cửa Cảnh nơi vương máu. Họa sinh nhiều lắm lắm. Ngoài hung và chết ác. Sống ly cùng chết biệt. Vào quan bán ruộng vườn. Con cháu khó tai ương. Giống nuôi thấy chịu thương. Xem được phải phòng phương.
Hỏi rằng: Cửa Cảnh thuộc Hoả, phương Nam, lệnh mùa Hạ, gặp đúng vực Ly minh, lấy gì làm hung?
Cù Tiên đáp rằng: Cửa Cảnh ở khí lệnh mùa Hạ, muôn vật lớn khoẻ, là thời sắp trở về già, gần cửa cung Khôn rồi. Lại là số thịnh của Dương, khí Trời Đất đến đó sắp có tình giết chóc. Tuy là phương trên sáng dưới cang, cũng không cát cả được (diệc bất toàn cát). Duy có lợi về việc văn thư, nhân đó mà bảo là hơi cát (thứ cát).
Dùng cửa Cảnh chỉ nên dâng thơ, hiến kế sách, tâu đối, tuyển đưa tướng sĩ là cát. Ngoài ra thì không lợi.
Tới Khôn, Cấn, Trung thì cát. Cung 3, 4 thì lành. Cung 1 phản ngâm. Cung 6, 7 bị bách, đại hung. Nếu được 3 Kỳ, nên đặt mưu lừa, phá trận, công lửa, ra hiệu lệnh, phong công thưởng tước, các việc như thế thì cát.
Cửa Cảnh:
Cảnh môn bẩy bẩy tía hồng quân,
Tị Ngọ vượng Nam, kết Tuất Dần.
Sai sử, đưa thư, nguy giải ách,
Cầu mưu, tu tạo, yết cầu thân.
Cất chôn, dựng gả, lành trong việc,
Cấp thưởng dùng người như cánh chân.
Hiến kế, cầu danh, gần bệ ngọc,
Kén tài, khoa cử, nổi danh văn.
Cửa Cảnh, Thần Hỏa, Liêm Trinh
(Cửa này ra đi, yết kiến Quý nhân.Cờ bạc, vui chơi, tranh đuổi, lưới bắt, đi xa 40 dặm tất thấy tiếng nhạc vui).
Đi xa, xuất nhập, Cảnh môn trung
Không khắc, không sinh nửa cát hung
Ví gặp sao Thần, Phương vị ác
Cố tâm, việc cũng chẳng sao thông
Ra vào cửa Cảnh nên lành tốt
Trong giỡn, thưởng đùa là nhất công
Lưới cá, đi săn đều được ít
Không mừng, không sợ thấy an lòng
Cửa Cảnh:
Cảnh môn bẩy bẩy tía hồng quân,
Tị Ngọ vượng Nam, kết Tuất Dần.
Sai sử, đưa thư, nguy giải ách,
Cầu mưu, tu tạo, yết cầu thân.
Cất chôn, dựng gả, lành trong việc,
Cấp thưởng dùng người như cánh chân.
Hiến kế, cầu danh, gần bệ ngọc,
Kén tài, khoa cử, nổi danh văn.
Cửa Cảnh, Thần Hỏa, Liêm Trinh
(Cửa này ra đi, yết kiến Quý nhân.Cờ bạc, vui chơi, tranh đuổi, lưới bắt, đi xa 40 dặm tất thấy tiếng nhạc vui).
Đi xa, xuất nhập, Cảnh môn trung
Không khắc, không sinh nửa cát hung
Ví gặp sao Thần, Phương vị ác
Cố tâm, việc cũng chẳng sao thông
Ra vào cửa Cảnh nên lành tốt
Trong giỡn, thưởng đùa là nhất công
Lưới cá, đi săn đều được ít
Không mừng, không sợ thấy an lòng
6/ CỬA TỬ.
Cửa Tử ( Cửa chết khắc ứng)Cửa tử nơi đây thật rất hung
Mạng người gặp phải hoạ sau lưng
Xoàng ra phải mất tiền hao của
Còn phải phòng tang tóc chập chùng.
Hỏi rằng: Cửa Tử thuộc Thổ, lại là phương của phần đêm sao hắc, khí Thu Đông, trời Đất tàn sát nặng nề. Từ đó mà đi, cửa hung. Sao hung, nên bỏ đi không dùng. Chả biết cửa này có còn dùng được việc gì không?
Cù Tiên đáp rằng: Cái hung của Cửa Tử là lúc Trời Đất mặc lòng ra oai tàn sát, cỏ mất màu sắc, cây trút rụng lá, cho nên là tượng hung. Nếu được Kỳ đến trợ thì những việc như đánh tội chết, bắt bớ, săn bắn cũng được tốt, đó là thuận theo lẽ trời là thế không bỏ được.
Cửa Tử:
Cửa Tử hai hai, tinh ngược ác,
Cấn Khôn Mậu Kỷ là phương được.
Lưới săn, giết chóc, phương này nên,
Tống táng, viếng tang thì cũng thích.
Xây dựng lo trên với kẻ bằng,
Tang trùng kẻ chết nhiều ngang ngược.
Cầu mong không lợi, chẳng nên cầu,
Động, thấy thua toi, quan mất chức.
Cửa Tử, Thần Thổ, Cự môn
(Cửa này nên đi săn, vây bắt, sát sinh ngàn chết, một sống. Đi 20 dặm bên Đi yết, cầu mưu vào cửa Tử đường tất thấy người tử thương là ứng)
Đi yết, cầu mưu vào cửa Tử
Cát thần thưa thót, Khôn bàn đủ
Tự mình ví chẳng chịu làm ngang (tác hoành sự)
Thì tất rồi ra thương vết đó
Cửa Tử, Đông Tây chẳng dám đi
Đọc tên đủ thấy không nên sự
Tử thương, ai oán được gì đâu
(Cửa này không nên ra cửa, lên quan,
Bậc thành không truyền lời dối trá
7/ CỬA KINH.
Cửa Kinh khắc ứngCửa Kinh chủ tranh kiện. Người chết bệnh dịch ôn. Năm Thìn, tháng Hỏa tới, thân mình hoạ đến bên. Duy giấy tờ tranh kiện, bắt bớ, cờ bạc: nên. Ngoài ra thì hung cả. Gặp Kinh là phải kiêng.
Hỏi rằng: Cửa Kinh thuộc Kim, gặp tháng 8 lệnh Thu, muôn vật đều già, Trời Đất ra oai tàn sát muôn vật, cũng nên đó chăng?
Cù tiên đáp rằng: Cửa Kinh, khí tàn sát, vật loại già cỗi, vốn không khí sống cho nên hung. Nhưng mà trời đất còn long ưa sống (hiền sinh chi tâm), không muốn giết hết mầm tỏi, mầm lúa đông, cũng chẳng đã mà giết. Cửa này tuy hung, mà những việc như trình thơ, dâng kế lừa, bắt bớ, đặt nghi, phục binh đều cát, cũng chẳng nên bỏ.
Cửa Kinh:
Cửa Kinh không hóa khí là ngược,
Vượng ở Canh Tân Thân Dậu cước.
Vó lưới chăng cao, tụng ngục chờ,
Cửa công, hình kích, đều theo bước.
Trốn đi, lừa bắt, đều có công,
Bán chợ, tu doanh, thua lỗ trước.
Kiện tụng, kinh hoàng, tật dịch hưng,
Bại tù, quân giặc, chó dê chết.
Cửa Kinh, Thần Kim, Phá Quân
(Cửa này không nên ra cửa, lên quan,không cát, mọi việc đi 6-7 dặm tất thấy vật to lớn quái sợ là nghiệm)
Cầu tìm, chạy mất gặp Kinh môn
Người trốn, của tiền vẫn hãy còn
Lại được cát tinh không khắc chế
Thì người trốn lánh sợ bay hồn
Kinh môn nhất định là kinh sợ
Mọi việc ra vào tất phải sờn
Việc tốt thôi đi đứng nói đến
Ngồi nhà đừng động việc là hơn
8/ CỬA KHAI.
Cửa khai (cửa mở) khắc ứngCửa Khai muốn biết chiêm làm sao?
Đầy tớ, trâu, dê, trăm buổi vào.
Đất cát, hôn nhân,tài lợi lắm.
Cửa nhà rộng rãi, của đầy kho.
Có thêm sản nghiệp người thường tiến.
Tị-Dậu-Sửu năm thêm miệng chào:
Con cháu ơn vua nhiều tập ấm
Đai vàng áo tía gội ơn cao
Hỏi rằng: Cửa Khai thuộc Kim, là lúc khí trời khô héo,là thời muôn vật tận cùng lấy gì bảo là cát?
Cù tiên đáp rằng: Cửa Khai là kim, là lúc muôn vật héo hết. Sao không biết muôn vật héo hết mà có sống lại. Cửa Khai thuộc Kiền, trong Kiền có Hợi. Kiền nạp Giáp Nhâm (thu mầm ở Nhâm). Kim động thì thủy sinh, sinh mà sinh muôn vật, cho nên giúp sống cho muôn vật lúc mới đầu. Lại là Thiên Môn ( cửa Trời), cho nên cát. Nếu gặp được kỳ Ất (gọi là Thiên Độn = ẩn Trời) là được tinh Nhật che chở. Hợp với kỳ Bính, là được tinh nguyệt che chở. Hợp với kỳ Đinh là được Thái Âm ( âm cả) che chở, mọi việc mưu đều nên, danh chính ngôn thuận. Dùng việc công 100 cái thì được 100 thái. Dùng việc tư tất bị người khác làm tiết lộ thì lại gặp hung cừu. Ưa tới Kiền Đoài là được khí tướng (khí khá). Vào cung Khảm thủy, Kiền thủy sinh nhau như mẹ ngoảnh lại con. Vậy nên là cát. Ra đi 4 dặm hoặc 40 dặm, thấy lợn chuột các loài ấy, 60 dặm gặp quý nhân đi xe ngựa, có rượu thịt. Vào cung cấn là vào Mộ. Vào cung Chấn là Bách (bức bách), lại là 4 khí. Vào cung Tốn là phản ngâm. Vào cung Ly thì Kim bị Hỏa khắc, không lợi.
Ra cửa Khai, 30 dặm, gặp quý nhân, cát. 40 dặm gặp lợn ngựa, có rượu thịt, cát.
Có kỳ Ất tới thì thấy Quý nhân mặc áo hồng.
Có kỳ Bính tới, thấy ông già chống gậy.
Có kỳ Đinh tới, thấy người mang vật bằng tre gỗ thì ứng cát.
Cửa Khai:
Cửa Khai sáu sáu khí đầy phè,
Yết kiến, cầu mưu, lợi lộc ghê.
Dựng cửa, xây nhà, quan chức tiến,
Ngoài về tiền lụa ngựa trâu dê.
Mật ong hầm chứa, hoạch phát tài,
Con cháu giàu sang, danh lợi đề.
Thân Dậu Canh Tân, Thu nguyệt vượng,
Bán buôn, sản xuất lợi Thu về.
Cửa Khai, Thần Kim, Vũ Khúc
(Gặp cửa này, nên lên quan, gặp bậc Quý,ra vào, cầu tài, rút lui, 30 dặm thấy đàn bà hoặc người mặc áo đẹp là ứng).
Cửa Khai xuất nhập rất là hay
Muôn việc hanh thông, tốt đẹp thay
Xuất nhập, cầu tài, mừng rỡ thấy
Tám phương cán sự mạnh nào tày
Cầu tài, xuất nhập mà Khai thấy
Tự có hân hoan, việc chẳng chầy
Lại được cát tinh soi chiếu đến
Gặp ngay rượu thịt, cười vui vầy.
(Gặp cửa này, nên lên quan, gặp bậc Quý,ra vào, cầu tài, rút lui, 30 dặm thấy đàn bà hoặc người mặc áo đẹp là ứng).
Cửa Khai xuất nhập rất là hay
Muôn việc hanh thông, tốt đẹp thay
Xuất nhập, cầu tài, mừng rỡ thấy
Tám phương cán sự mạnh nào tày
Cầu tài, xuất nhập mà Khai thấy
Tự có hân hoan, việc chẳng chầy
Lại được cát tinh soi chiếu đến
Gặp ngay rượu thịt, cười vui vầy.
QUAN HỆ .
1/Quyết đoán Tám môn
Muốn cầu giá chợ đến Sinh phương,1/Quyết đoán Tám môn
Vây bắt nên tìm Tử lộ cường.
Muốn hỏi đi xa, Khai mở đó,
Cửa Hưu lợi buổi yết quân vương.
Cửa Thương đòi nợ đều vừa ý,
Cửa Đỗ còn khi lợi án tàng.
Kiện tụng, bắt vây, Kinh sẵn đó,
Rượu chè hiến kế Cảnh chân hương.
Yết Quý cầu quan dùng cửa Khai
Cầu tài, kiếm lợi cửa Hưu lai.
Lánh nạn, cầu quan Sinh đến đó,
Cửa Thương đòi nợ được như lời.
Tìm người kiếm bạn nên dung Cảnh,
Săn bắn lưới chài Tử đó rồi.
Bắt giặc lùng gian, kinh dùng được,
Đỗ môn chạy mất khó mong hồi.
2/ Tổng ca 8 cửa (bát môn tổng ca)
Kỳ đến cửa Khai, lợi xuất hành,
Cửa Hưu, kiện cáo, tiến thư nhanh.
Cửa Sinh, nhập trạch và hôn thú,
Thương mà đòi nợ, có công lênh.
Đỗ nơi ẩn trốn và hang lấp,
Cửa Cảnh thịt xôi chè chén nhanh.
Cửa Tử đi săn và xuất trận,
Cửa Kinh, phục chúng, cầu mưu thành.
3/NÊN TRONG 8 MÔN.
Cửa Khai nên xuất, quý nhân lưu
Cửa Đỗ giấu thân được khỏi ưu
Cửa Cảnh cầu tài nhiều được lắm
Cửa thương đòi nợ được xong xuôi
Cửa Sinh giá thú, đi xa cát
Cửa Kinh gặp hỷ dù cũng khó trôi
Tử đuổi bắt người và lưới cá
Khai thì thuận lợi, chín châu ngôi.
Kỳ đến cửa Khai, lợi xuất hành,
Cửa Hưu, kiện cáo, tiến thư nhanh.
Cửa Sinh, nhập trạch và hôn thú,
Thương mà đòi nợ, có công lênh.
Đỗ nơi ẩn trốn và hang lấp,
Cửa Cảnh thịt xôi chè chén nhanh.
Cửa Tử đi săn và xuất trận,
Cửa Kinh, phục chúng, cầu mưu thành.
3/NÊN TRONG 8 MÔN.
Cửa Khai nên xuất, quý nhân lưu
Cửa Đỗ giấu thân được khỏi ưu
Cửa Cảnh cầu tài nhiều được lắm
Cửa thương đòi nợ được xong xuôi
Cửa Sinh giá thú, đi xa cát
Cửa Kinh gặp hỷ dù cũng khó trôi
Tử đuổi bắt người và lưới cá
Khai thì thuận lợi, chín châu ngôi.
4/ LỆ ĐOÁN 8 MÔN GẶP CHÍN SAO
Cửa Hưu, ví gặp được Thanh long Cửa Sinh: rất thích gặp Thanh long
Mọi việc mưu làm, hết thấy thông Yết quý, mưu làm, trăm việc thông
Tìm lợi cầu tài, hưng vạn bội Buôn bán kinh doanh muôn lợi bội
Ra quân, bày trận, tất thành công Vào ra không ngại, nở nhan dung
Cửa Hưu, Thái ất, việc trăm hung Cửa Sinh Thái ất, phúc thâm đa
Chiến đấu, tương tranh, binh vượng hùng Xứng ý mong cầu, bủa lưới ra
Dựng trại, nhổ doanh, đều tất thắng Kiếm lợi cầu tài hay vạn bội
Lên quan, yết quý, bội vui mừng Hành quân, xuất nhập, vướng đều qua
Cửu Hưu, Thiên ất gặp nhau hung Cửa Sinh ví gặp Thiên ất tinh
Xuất nhập, cầu tài, đại cát trung Xuất nhập đều không gặp cạnh tranh
Người quý gặp luôn, nhiều mến chuộng Bố trận bài binh đều đắc thắng
Đón đưa rượu thịt, người trọng cùng Trăm công vừa ý, tâm xuống tình
Cửa Khai, ví lại có Thanh long Cửa Khai, Thiên ất hội nhau cùng
Kiến lợi trùng thu, được tục phong Xuất trận hành quân được thỏa lòng
Yết quý, lên quan, nhiều mến chuộng Cầu thánh, kinh doanh nhiều lợi lộc
Cầu mưu, xuất nhập, việc đều xong Thăng quan còn được của người sang
Cửa Khai, Thái ất hội cùng nhau Tám môn hung cát tùy sự làm
Cướp trại đoạt doanh như ý cầu Không những Khai Hưu Sinh Phá kham
Xuất chiến, hành binh, không chẳng thắng Bầy đến 10 can, 10 tiết khí
Cửa Khai dùng đến chẳng lo âu Đem tâm tường cứu rõ ràng tham
5/ Phép Năm Giả
Cửa Cảnh, hợp Ba Kỳ: Ất, Bính, Đinh, dưới địa bàn là cung Cửu Thiên gọi là Thiên giả (Trời làm giả). Ất là Thiên Đức. Bính là Thiên Uy. Đinh là Thái Âm. Phàm gặp linh của Ba Kỳ, nên bầy tỏ công việc tiện lợi, tiến lên yết kiến cầu việc, đều rất cát.
Cửa Đỗ, hợp Đinh, Kỷ, Quý, dưới địa bàn là cung Cửu Địa, gọi là Địa giả (Đất giả), nên ẩn giấu, mai phục. Ba giờ này nên giấu tích, ẩn hình.
Cửa Thương hợp Đinh, Kỷ, Quý, dưới địa bàn là cung Thái Âm, cũng gọi là Địa Giả, nên sai người làm gián điệp, mưu thám việc tư.
Lại như là cung Lục Hợp, cũng gọi là Địa Giả, nên trốn chạy, tránh lánh nạn.
Cửa Kinh, hợp Đinh, Kỷ, Quý, dưới địa bàn là cung Cửu Địa, gọi là Thần Giả , lợi việc chôn cất, ẩn nấp người không biết được.
Cửa Kinh, hợp với Lục Hợp, còn nói hợp với Sáu Nhâm, dưới địa bàn là cung Cửu Thiên, gọi là Nhân Giả, lợi việc bắt bớ, chạy trốn. Nếu là cách Thái Bạch Nhập Huỳnh Hoặc thì dưới đó tất bắt được.
Cửa Tử, hợp Đinh, Kỷ, Quý, dưới địa bàn là cung Cửu Địa, gọi là Quỷ Giả, lợi việc vượt chết, tiến độ. Còn nói tới cung Ba ẩn vượt, tức ba cửa cát ở địa bàn.
Trên đây là 5 phép Giả, tuỳ nghi việc mà dùng.
Cửa Hưu, ví gặp được Thanh long Cửa Sinh: rất thích gặp Thanh long
Mọi việc mưu làm, hết thấy thông Yết quý, mưu làm, trăm việc thông
Tìm lợi cầu tài, hưng vạn bội Buôn bán kinh doanh muôn lợi bội
Ra quân, bày trận, tất thành công Vào ra không ngại, nở nhan dung
Cửa Hưu, Thái ất, việc trăm hung Cửa Sinh Thái ất, phúc thâm đa
Chiến đấu, tương tranh, binh vượng hùng Xứng ý mong cầu, bủa lưới ra
Dựng trại, nhổ doanh, đều tất thắng Kiếm lợi cầu tài hay vạn bội
Lên quan, yết quý, bội vui mừng Hành quân, xuất nhập, vướng đều qua
Cửu Hưu, Thiên ất gặp nhau hung Cửa Sinh ví gặp Thiên ất tinh
Xuất nhập, cầu tài, đại cát trung Xuất nhập đều không gặp cạnh tranh
Người quý gặp luôn, nhiều mến chuộng Bố trận bài binh đều đắc thắng
Đón đưa rượu thịt, người trọng cùng Trăm công vừa ý, tâm xuống tình
Cửa Khai, ví lại có Thanh long Cửa Khai, Thiên ất hội nhau cùng
Kiến lợi trùng thu, được tục phong Xuất trận hành quân được thỏa lòng
Yết quý, lên quan, nhiều mến chuộng Cầu thánh, kinh doanh nhiều lợi lộc
Cầu mưu, xuất nhập, việc đều xong Thăng quan còn được của người sang
Cửa Khai, Thái ất hội cùng nhau Tám môn hung cát tùy sự làm
Cướp trại đoạt doanh như ý cầu Không những Khai Hưu Sinh Phá kham
Xuất chiến, hành binh, không chẳng thắng Bầy đến 10 can, 10 tiết khí
Cửa Khai dùng đến chẳng lo âu Đem tâm tường cứu rõ ràng tham
5/ Phép Năm Giả
Cửa Cảnh, hợp Ba Kỳ: Ất, Bính, Đinh, dưới địa bàn là cung Cửu Thiên gọi là Thiên giả (Trời làm giả). Ất là Thiên Đức. Bính là Thiên Uy. Đinh là Thái Âm. Phàm gặp linh của Ba Kỳ, nên bầy tỏ công việc tiện lợi, tiến lên yết kiến cầu việc, đều rất cát.
Cửa Đỗ, hợp Đinh, Kỷ, Quý, dưới địa bàn là cung Cửu Địa, gọi là Địa giả (Đất giả), nên ẩn giấu, mai phục. Ba giờ này nên giấu tích, ẩn hình.
Cửa Thương hợp Đinh, Kỷ, Quý, dưới địa bàn là cung Thái Âm, cũng gọi là Địa Giả, nên sai người làm gián điệp, mưu thám việc tư.
Lại như là cung Lục Hợp, cũng gọi là Địa Giả, nên trốn chạy, tránh lánh nạn.
Cửa Kinh, hợp Đinh, Kỷ, Quý, dưới địa bàn là cung Cửu Địa, gọi là Thần Giả , lợi việc chôn cất, ẩn nấp người không biết được.
Cửa Kinh, hợp với Lục Hợp, còn nói hợp với Sáu Nhâm, dưới địa bàn là cung Cửu Thiên, gọi là Nhân Giả, lợi việc bắt bớ, chạy trốn. Nếu là cách Thái Bạch Nhập Huỳnh Hoặc thì dưới đó tất bắt được.
Cửa Tử, hợp Đinh, Kỷ, Quý, dưới địa bàn là cung Cửu Địa, gọi là Quỷ Giả, lợi việc vượt chết, tiến độ. Còn nói tới cung Ba ẩn vượt, tức ba cửa cát ở địa bàn.
Trên đây là 5 phép Giả, tuỳ nghi việc mà dùng.
6/ Phép Ba Trá
Phàm việc nên được ba cửa cát: Khai, Hưu, Sinh, tức không được Ba Kỳ: Ất, Bính, Đinh cũng cát, lại lấy thần âm tương trợ gọi là Ba Trá. Có địa bàn Cửu Địa, Thái Âm,Lục Hợp, ba thần trợ kỳ gọi là cửa Dương được trợ (dương môn đắc trợ), lại được cửa cát ở địa bàn tương trợ thì toàn cát.
Ví 3 cửa cát Khai, Sinh, Hưu hợp với Ba kỳ Ất, Bính, Đinh, không được Thái Âm, Cửu Địa, Lục Hợp ở địa bàn, gọi là có cửa không Dương, có Kỳ không Âm, mọi việc gặp thì cát 7/10.
Ba cửa Khai, Sinh, Hưu hợp với Ba Kỳ, dưới địa bàn là cung Thái Âm, lại được cửa cát, cửa cát này cần có sao cát tương trợ, gọi là Chân Trá (Dối đúng), lợi việc thi ân, ẩn trốn, tế, cầu đảo Tiên thì cát.
Khai, Hưu, Sinh hợp Ba Kỳ, dưới địa bàn là cung Lục Hợp, lại được cửa cát tương trợ, gọi là Hưu Trá (Dối Lành), nên luyện thuốc, cầu đảo, tế thần, cầu giải tai nạn, đều rất cát.
Cửa Khai, Sinh, Hưu hợp với Ba Kỳ, dưới địa bàn là cung Cửu Địa, lại được cửa cát tương trợ, gọi là Trọng Trá (Dối nặng), nên thu hàng binh, thêm miệng ăn, nạp tài, tập tước (con cháu kế thừa tước của ông cha), bái thụ (lạy nhậm chức tước), thì đều cát.
Trên đây là cửa Trá, các việc như đi xa, buôn bán, hôn nhân, mọi việc đều rất cát.
Phàm việc nên được ba cửa cát: Khai, Hưu, Sinh, tức không được Ba Kỳ: Ất, Bính, Đinh cũng cát, lại lấy thần âm tương trợ gọi là Ba Trá. Có địa bàn Cửu Địa, Thái Âm,Lục Hợp, ba thần trợ kỳ gọi là cửa Dương được trợ (dương môn đắc trợ), lại được cửa cát ở địa bàn tương trợ thì toàn cát.
Ví 3 cửa cát Khai, Sinh, Hưu hợp với Ba kỳ Ất, Bính, Đinh, không được Thái Âm, Cửu Địa, Lục Hợp ở địa bàn, gọi là có cửa không Dương, có Kỳ không Âm, mọi việc gặp thì cát 7/10.
Ba cửa Khai, Sinh, Hưu hợp với Ba Kỳ, dưới địa bàn là cung Thái Âm, lại được cửa cát, cửa cát này cần có sao cát tương trợ, gọi là Chân Trá (Dối đúng), lợi việc thi ân, ẩn trốn, tế, cầu đảo Tiên thì cát.
Khai, Hưu, Sinh hợp Ba Kỳ, dưới địa bàn là cung Lục Hợp, lại được cửa cát tương trợ, gọi là Hưu Trá (Dối Lành), nên luyện thuốc, cầu đảo, tế thần, cầu giải tai nạn, đều rất cát.
Cửa Khai, Sinh, Hưu hợp với Ba Kỳ, dưới địa bàn là cung Cửu Địa, lại được cửa cát tương trợ, gọi là Trọng Trá (Dối nặng), nên thu hàng binh, thêm miệng ăn, nạp tài, tập tước (con cháu kế thừa tước của ông cha), bái thụ (lạy nhậm chức tước), thì đều cát.
Trên đây là cửa Trá, các việc như đi xa, buôn bán, hôn nhân, mọi việc đều rất cát.
7/ Phép 9 độn biến hoá.
1/ Ba cửa cát Khai, Hưu, Sinh, trên thiên bàn Kỳ Bính, dưới Địa bàn là Kỳ Đinh, đều gọi là Thiên Độn (Độn trời), được tinh Nguyệt che chở, hoặc dưới địa bàn là Cửu Địa, Thái Âm, cũng gọi là Thiên Độn, có thể giấu vết ẩn hình. Nếu lại có Thiên Đức, Nguyệt Đức, Thiên Xá, Nhật Lộc, Hỷ thần thì trăm việc đều cát. Có Chu Tước lợi việc văn thư, tâu đối. Có Đằng Xà thì chủ nghi hoặc. Có Thanh Long thì sinh tài hỷ. Ví có bạch Hổ, Huyền Vũ thì chủ tật bệnh, mất mát, việc nhỏ không được toàn cát. Nếu luyện tế Đinh Giáp, gọi gió, thay mưa (hô phong hoán vũ), các việc như thế mà dùng Thiên Độn thì có thể toàn cát.
2/ Ba cửa Khai, Sinh, Hưu hợp kỳ Ất, dưới địa bàn là Cửu Địa, Thái Âm, Lục Hợp cung, đều gọi là Địa Độn (Độn Đất), được tinh Nhật che chở, có thể đặt phục, mưu làm, trăm việc đều cát. Nếu có Chu tước, nên đặt giấy tờ, làm màu lúa. Có mừng về tiền. Nếu có Bạch Hổ Được khóa cát Địa độn, nên xây dựng, khởi công, chôn cất, giấu diếm, các việc như thế đều rất cát.
3/ Khai, Hưu, Sinh, hợp với Ba kỳ, dưới địa bàn là Lục Hợp, gọi là Nhân Độn (Độn Người), cửa Sinh với Ba kỳ tới cung Thái Âm, và cửa Sinh, Kỳ Ất tới cung Cửu Địa, cũng gọi là Nhân Độn. Có Lộc ngày, Hỷ Thần, và Quý Thần, thì chủ có mừng về tiền, các việc hòa hợp. Có Chu Tước chủ kiện cáo được lý. Có Đằng Xà chủ các việc mộng ác, quỷ mỵ. Có Bạch Hổ kỵ đi thuyền. Có Huyền Vũ chủ có trộm cắp. Nếu có sao Thiên trụ, Thiên Phụ thì chủ mưa. Thiên Xung chủ có sấm. Thiên Ương chủ có chớp. Xem tật bệnh thì chủ nguy cấp.
4/ Khai, Hưu, Sinh hợp Kỳ Ất, dưới địa bàn là Sáu Tân mà rơi vào cung Tốn gọi là Phong độn (Độn Gió). Có 2 sao Thiên Xung, Thiên Phụ thì phương ấy có thể tế phong, nhưng không lợi cho việc đi thuyền, tin tức đến. Hành binh thì lợi đánh Hỏa công, thắng lớn.
5/ Khai, Hưu, Sinh hợp Kỳ Ất, dưới là cung Sáu Tân gọi là Vân Độn (Độn mây); cửa Sinh hợp Thiên Nhuế, Nhậm, tới cung Khôn; Ba cửa cát hợp Sáu Tân, tới cung địa bàn, Sáu Ất; hoặc Thiên Nhuế hợp cửa Sinh, dưới địa bàn là Cửu Địa ở cung Khôn; cũng có thể gọi là Vân Độn. Tháng Đông nên cầu mây, tháng Hạ nên cầu mưa. Nếu có Bạch Hổ thì chủ có mưa đá, mưa băng. Nếu có Đằng Xà, Chu Tước chủ nắng hạn, câu cưỡng thì chiêu lấy tai hoạ. Hành binh nên đi cướp doanh, kẻ kia không biết trước được.
6/ Khai, Hưu, Sinh hợp sao Thiên Tâm, Giáp Nhâm, Lục Hợp ở cung Khảm là Long Độn (Độn Rồng); hoặc cửa Hưu, Kỳ Ất trên Khôn; hoặc cửa Khai Lục Mậu trên Cửu Địa ở địa bàn; với cửa Hưu, Kỳ Đinh, dưới địa bàn là Cửu Địa ở cung Khảm; đều gọi là Long Độn. Phương này cầu mưa tất ứng, đánh thuỷ tất thắng. Lại được các Thần Thanh Long, Huyền Vũ, Thần Hậu, thì chủ mưa dầm, phải phòng kẻ gian tế trộm cắp.
7/ Cửa Khai, Giáp Thân Canh, dưới địa bàn là cung Đoài, là Hổ Độn (Độn Hổ); hoặc cửa Hưu, Kỳ Ất, dưới địa bàn là Sáu Tân ở cung Cấn, cũng đều gọi là Hổ Độn. Phương ấy nên tế phong, trấn tà, đuổi quỷ, yên nhà, đều cát. Nên đi thuyền, chiêu an, đánh hiểm, siết sào huyệt, lợi khách. Nếu yên doanh, phục binh, không dám nhìn thẳng.
8/ Cửa Khai, hợp Kỳ Ất, hợp sao Thiên Tâm, hoặc sao Thiên Cầm, dưới địa bàn là Cửu Thiên ở cung Kiền, gọi là Thần Độn (Độn Thần); hoặc cửa Sinh, Kỳ Bính hợp hai sao Cầm, Tâm, dưới địa bàn là cung Cửu Thiên, cũng gọi là Thần Độn. Phương này nên khu thần, sai tướng, thi kế, thần tất trợ ngầm. Hành binh nên làm thần tướng đắp trong ba quân, thần tất lên. Lại nên tế lễ, thần tất về nương. Nếu có Bạch Hổ, Lôi Sát, Kiếp Sát thì chủ sét đánh thương.
9/ Cửa Hưu, Thiên Phụ, Sáu Tân, dưới địa bàn là Kỳ Đinh, ở cung Cấn, gọi là Quỷ Độn (Độn Quỷ); cửa Sinh, Thái Âm, dưới địa bàn là Kỳ Đinh; hoặc cửa Sinh, Cửu Địa, dưới địa bàn là Kỳ Đinh, cũng đều gọi là Quỷ độn, nên dò đường, xét xứ giặc, thực hành mưu gian, tung tin đồn, kẻ kia không xét nổi mà lòng quân đâm nghi hoặc. Trong nhà có quỷ, nên thư phù mà trấn thì cát. Các việc khác không lợi.
Xin xem tiếp bài 10 . dienbatn.1/ Ba cửa cát Khai, Hưu, Sinh, trên thiên bàn Kỳ Bính, dưới Địa bàn là Kỳ Đinh, đều gọi là Thiên Độn (Độn trời), được tinh Nguyệt che chở, hoặc dưới địa bàn là Cửu Địa, Thái Âm, cũng gọi là Thiên Độn, có thể giấu vết ẩn hình. Nếu lại có Thiên Đức, Nguyệt Đức, Thiên Xá, Nhật Lộc, Hỷ thần thì trăm việc đều cát. Có Chu Tước lợi việc văn thư, tâu đối. Có Đằng Xà thì chủ nghi hoặc. Có Thanh Long thì sinh tài hỷ. Ví có bạch Hổ, Huyền Vũ thì chủ tật bệnh, mất mát, việc nhỏ không được toàn cát. Nếu luyện tế Đinh Giáp, gọi gió, thay mưa (hô phong hoán vũ), các việc như thế mà dùng Thiên Độn thì có thể toàn cát.
2/ Ba cửa Khai, Sinh, Hưu hợp kỳ Ất, dưới địa bàn là Cửu Địa, Thái Âm, Lục Hợp cung, đều gọi là Địa Độn (Độn Đất), được tinh Nhật che chở, có thể đặt phục, mưu làm, trăm việc đều cát. Nếu có Chu tước, nên đặt giấy tờ, làm màu lúa. Có mừng về tiền. Nếu có Bạch Hổ Được khóa cát Địa độn, nên xây dựng, khởi công, chôn cất, giấu diếm, các việc như thế đều rất cát.
3/ Khai, Hưu, Sinh, hợp với Ba kỳ, dưới địa bàn là Lục Hợp, gọi là Nhân Độn (Độn Người), cửa Sinh với Ba kỳ tới cung Thái Âm, và cửa Sinh, Kỳ Ất tới cung Cửu Địa, cũng gọi là Nhân Độn. Có Lộc ngày, Hỷ Thần, và Quý Thần, thì chủ có mừng về tiền, các việc hòa hợp. Có Chu Tước chủ kiện cáo được lý. Có Đằng Xà chủ các việc mộng ác, quỷ mỵ. Có Bạch Hổ kỵ đi thuyền. Có Huyền Vũ chủ có trộm cắp. Nếu có sao Thiên trụ, Thiên Phụ thì chủ mưa. Thiên Xung chủ có sấm. Thiên Ương chủ có chớp. Xem tật bệnh thì chủ nguy cấp.
4/ Khai, Hưu, Sinh hợp Kỳ Ất, dưới địa bàn là Sáu Tân mà rơi vào cung Tốn gọi là Phong độn (Độn Gió). Có 2 sao Thiên Xung, Thiên Phụ thì phương ấy có thể tế phong, nhưng không lợi cho việc đi thuyền, tin tức đến. Hành binh thì lợi đánh Hỏa công, thắng lớn.
5/ Khai, Hưu, Sinh hợp Kỳ Ất, dưới là cung Sáu Tân gọi là Vân Độn (Độn mây); cửa Sinh hợp Thiên Nhuế, Nhậm, tới cung Khôn; Ba cửa cát hợp Sáu Tân, tới cung địa bàn, Sáu Ất; hoặc Thiên Nhuế hợp cửa Sinh, dưới địa bàn là Cửu Địa ở cung Khôn; cũng có thể gọi là Vân Độn. Tháng Đông nên cầu mây, tháng Hạ nên cầu mưa. Nếu có Bạch Hổ thì chủ có mưa đá, mưa băng. Nếu có Đằng Xà, Chu Tước chủ nắng hạn, câu cưỡng thì chiêu lấy tai hoạ. Hành binh nên đi cướp doanh, kẻ kia không biết trước được.
6/ Khai, Hưu, Sinh hợp sao Thiên Tâm, Giáp Nhâm, Lục Hợp ở cung Khảm là Long Độn (Độn Rồng); hoặc cửa Hưu, Kỳ Ất trên Khôn; hoặc cửa Khai Lục Mậu trên Cửu Địa ở địa bàn; với cửa Hưu, Kỳ Đinh, dưới địa bàn là Cửu Địa ở cung Khảm; đều gọi là Long Độn. Phương này cầu mưa tất ứng, đánh thuỷ tất thắng. Lại được các Thần Thanh Long, Huyền Vũ, Thần Hậu, thì chủ mưa dầm, phải phòng kẻ gian tế trộm cắp.
7/ Cửa Khai, Giáp Thân Canh, dưới địa bàn là cung Đoài, là Hổ Độn (Độn Hổ); hoặc cửa Hưu, Kỳ Ất, dưới địa bàn là Sáu Tân ở cung Cấn, cũng đều gọi là Hổ Độn. Phương ấy nên tế phong, trấn tà, đuổi quỷ, yên nhà, đều cát. Nên đi thuyền, chiêu an, đánh hiểm, siết sào huyệt, lợi khách. Nếu yên doanh, phục binh, không dám nhìn thẳng.
8/ Cửa Khai, hợp Kỳ Ất, hợp sao Thiên Tâm, hoặc sao Thiên Cầm, dưới địa bàn là Cửu Thiên ở cung Kiền, gọi là Thần Độn (Độn Thần); hoặc cửa Sinh, Kỳ Bính hợp hai sao Cầm, Tâm, dưới địa bàn là cung Cửu Thiên, cũng gọi là Thần Độn. Phương này nên khu thần, sai tướng, thi kế, thần tất trợ ngầm. Hành binh nên làm thần tướng đắp trong ba quân, thần tất lên. Lại nên tế lễ, thần tất về nương. Nếu có Bạch Hổ, Lôi Sát, Kiếp Sát thì chủ sét đánh thương.
9/ Cửa Hưu, Thiên Phụ, Sáu Tân, dưới địa bàn là Kỳ Đinh, ở cung Cấn, gọi là Quỷ Độn (Độn Quỷ); cửa Sinh, Thái Âm, dưới địa bàn là Kỳ Đinh; hoặc cửa Sinh, Cửu Địa, dưới địa bàn là Kỳ Đinh, cũng đều gọi là Quỷ độn, nên dò đường, xét xứ giặc, thực hành mưu gian, tung tin đồn, kẻ kia không xét nổi mà lòng quân đâm nghi hoặc. Trong nhà có quỷ, nên thư phù mà trấn thì cát. Các việc khác không lợi.
Không có nhận xét nào: