CỬU VỊ TIÊN NƯƠNG (CỬU VỊ NỮ PHẬT).
(Tổng hợp tài liệu của các soạn giả Đức Nguyên và Trần Văn Rạng). dienbatn xin giới thiệu cùng các bạn.
九位仙娘 - 九位女佛
Cửu vị Tiên Nương là 9 vị Tiên Nữ ở Diêu trì Cung, tầng trời Tạo Hóa Thiên, hầu cận Đức Phật Mẫu và giúp việc cho Đức Phật Mẫu.
“Dưới quyền Đức Phật Mẫu có Cửu Tiên Nương trông nom về Cơ giáo hóa cho vạn linh, còn ngoài ra có hằng hà sa số Phật trông nom về Cơ phổ độ mà Quan Thế Âm Bồ Tát là Đấng đứng đầu.
Quan Thế Âm Bồ Tát ngự tại cung Nam Hải, ở An Nhàn động. Còn Diêu Trì Cung thì ở tại Tạo HóaThiên.”
(Trích thánh giáo Luật Tam Thể của Đức Cao Thượng Phẩm và Bát Nương giáng cơ.)
Cửu Vị Tiên Nương đã lập được nhiều công quả trong thời khai Đạo, dẫn dắt các nguyên căn đi vào con đường đạo đức và làm môn đệ cho Đức Chí Tôn, để các vị nguyên căn trở thành tướng soái cho Đức Chí Tôn khai Đạo. Nhờ công quả nầy, Cửu Vị Tiên Nương đắc phong vào hàng Phật vị, nên còn gọi là Cửu Vị Nữ Phật.
Nhiệm vụ của Cửu Vị Tiên Nương, từ Nhứt Nương đến Cửu Nương, trong Cửu Trùng Thiên nơi cõi Thiêng liêng như sau:
1. NHỨT NƯƠNG:
Nhứt Nương cầm đờn tỳ bà, cai quản Vườn Ngạn Uyển, thuộc tầng trời thứ nhứt của Cửu Trùng Thiên, đón tiếp các chơn hồn qui thiên đi vào Cửu Trùng Thiên, xem xét các nguyên nhơn đang còn sống nơi cõi trần hay đã qui liễu. Mỗi đóa hoa trong Vườn Ngạn Uyển là một chơn linh. Khi chơn linh tái kiếp xuống trần thì hoa nở, khi qui liễu thì hoa héo tàn. Khi chơn linh làm điều đạo đức thì sắc hoa tươi thắm, còn làm điều gian ác thì sắc hoa ủ dột xấu xí.
Trong một kiếp giáng trần ở Việt Nam, Nhứt Nương có tên là Hoàng Thiều Hoa, một vị nữ tướng tài giỏi dưới thời Hai Bà Trưng.
Do đó, trong lễ Hội Yến Diêu Trì Cung, bài thài hiến lễ Nhứt Nương khởi đầu bằng chữ “Hoa”:
HOA thu ủ như màu thẹn nguyệt,
Giữa thu ba như tuyết đông về.
Non sông trải cánh tiên lòe,
Mượn câu thi hứng vui đề chào nhau.
SỰ TÍCH:
Theo sự cầu cơ học hỏi của Đức Cao Thượng Sanh, Nhứt Nương tên là Hoàng Thiều Hoa, tướng của Hai Bà Trưng.
Như vậy, HOA tức là Hoàng Thiều Hoa, người có công dẹp giặc nên được Hai Bà Trưng phong là Đông cung Công chúa và được dân tôn thờ ở chùa Phúc Khánh và miếu thờ ở xã Song Quang (nay là xã Hiền Quang, huyện Tam Nông, Vĩnh Phú).
Hai vợ chồng Hồng Phụ nhà nghèo, ở với nhau lâu mà không con. Ngày kia hai vợ chồng đi kiếm củi ở núi Tản Viên. Khi mệt nhọc, cả hai nằm ngủ, người vợ mộng thấy có một người con gái xinh đẹp từ trong núi đi ra, ngã đầu chào.
Người vợ nắm chặt tay nàng và hỏi: Nàng ở đâu đến?
Nàng đáp: Con là con gái của Sơn Thánh Tản Viên tên là Thiều Hoa. Ông bà có muốn nhận con làm con không?
Bà âu yếm đáp: - Nếu ta được con, ta sẽ coi con như con đẻ.
Sau đó, bà Đào thị sanh được một người con gái đẹp như tiên, giống như người trong mộng, nên đặt tên là Thiều Hoa. Từ khi có nàng, vợ chồng Hoàng Phụ đỡ vất vả. Năm 13 tuổi, cô ném đá vào quân Hán để cứu người. Năm sau, cha mẹ đều mất cả, cô phải đi chăn trâu ở xã Song Quan. Một hôm, Cô đứng trên gò cao nhìn xuống bãi sông thấy quân Hán nắm râu một cụ già lôi đi. Cô tức giận, lấy gậy chạy xuống bãi, chợt nghe tiếng gọi, cô thấy một ni cô đang vẫy tay. Cô chạy tới, Ni cô bảo:
- Con tuy có sức khoẻ, nhưng việc con làm chưa có ích gì cho dân tộc, ta không chỉ lo cho một người khỏi bị đánh mà phải lo cho cả nước khỏi bị đô hộ.
Thiều Hoa tỉnh ngộ thưa rằng:
- Từ nay, con xin ghi nhớ lời Thầy. Xin Thầy cho con làm đệ tử của Thầy.
Ni cô khẻ đáp: - Ta là người tu hành nhưng không quên việc cứu sanh linh ra khỏi cảnh trầm luân. Nếu con có chí lớn thì theo ta về chùa.
Từ đó, vườn chùa đã trở thành nơi rèn luyện của những người nghĩa dũng yêu nước. Năm 18 tuổi, cô từ giã ni cô đi Mê Linh đầu quân, được Hai Bà Trưng cho về sông Quan mộ nghĩa sĩ. Khi lệnh khởi nghĩa ban ra, cô dẫn 500 trai gái Sông Thao kéo về Mê Linh, được Hai Bà Trưng phong chức Tiên phong Hữu tướng.
Trong trận đánh Luy Lâu, Cô lập được nhiều công lớn. Khi Hai Bà Trưng lên ngôi vua, cô được phong là Đông Cung Công Chúa. Quả thật cô đã rạng danh: "Non sông trải cánh Tiên loè".
Trong kỳ Ba phổ độ nầy, cô là Nhứt Nương Diêu Trì Cung có bổn phận phổ độ nhơn sanh miền thượng du và trung du Bắc VN theo Đạo mới.
Vào ngày 27-01-1926, Nhứt Nương giáng cơ dạy Đạo cho các ông Lê Văn Trung, Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang và bà Nguyễn Thị Hiếu như sau:
“Nhứt Nương, Em chào các anh và đại tỷ.
Cái bông phù dung sớm còn tối mất còn hơn một kiếp người vì nó sống ngắn ngủi dường ấy nhưng mà buổi sớm còn có sắc, chớ người đời sanh ra chỉ để thọ khổ mà thôi. Chung qui, dù sống trăm tuổi chưa được một điều đắc chí, chết thì hết cái đời tạm nầy.
Em xin ba anh coi sự trường sanh của mình làm trọng, người không có phải kiếm, mình có sẵn nở bỏ đi, em chỉ tiếc giùm đó thôi. Đi vô đường chánh, cứ lo bước tới hoài thì trở về cựu vị đặng.”
Khi ông Lê Văn Trung hỏi: - Có duyên luyện đạo được cùng chăng? Xin em mách bảo giùm.
Nhứt Nương đáp: - “Đã gặp Đạo tức có duyên phần. Rán tu luyện! Siêng thì thành, biếng thì đọa, liệu lấy mà răn mình. Phải tính sớm, một ngày qua, một ngày chết, đừng dụ dự.
Em xin kiếu”.
2. NHỊ NƯƠNG:
Nhị Nương cầm lư hương, cai quản Vườn Đào Tiên của Đức Phật Mẫu, thuộc tầng trời thứ nhì của Cửu Trùng Thiên, đón tiếp các chơn hồn qui thiên đến Vườn Đào Tiên, mở tiệc trường sanh đãi các chơn hồn, và đưa các chơn hồn đến Ngân Kiều để cỡi Kim Quang bay lên Ngọc Hư Cung.
Trong một kiếp giáng trần ở VN, Nhị Nương có tên là CẨM. Do đó trong lễ Hội Yến Diêu Trì Cung, bài thài hiến lễ Nhị Nương khởi đầu bằng chữ “CẨM”:
CẨM tú văn chương hà khách đạo?
Thi thần tửu thánh vấn thùy nhân?
Tuy mang lấy tiếng hồng quần,
Cảnh tiên còn mến, cõi trần anh thư.
SỰ TÍCH:
Bài thài của Nhị Nương có câu: "Cẩm Tú văn chương hà khách đạo?" Cẩm Tú hay Cẩm Bửu (Cambhupura) là công trình văn hoá lớn của người khách Đạo (bạn đạo nước ngoài) tên là Jyeshthâryâ, người Thủy Chân Lạp. Nước Thủy Chân Lạp (Theo truyền thuyết, vị thần dựng nước Chân Lạp tên Kambu, nên tên nước là Kambujâ tức Chân Lạp, Pháp dịch Cambodge, Cambhu là Cẩm Bửu, Pura là thành thị. Tên ghép là thành thị Cẩm Bửu) gồm lưu vực sông Mékong và Miền Nam VN ngày nay. Lúc ấy bị chia làm nhiều khu vực do các vị Hoàng thân và tướng lãnh Phù Nam thống trị.
Nữ Vương Jyeshthâryâ là cháu 3 đời của Quốc Vương INDRAKOLA cai trị vùng đất quanh tỉnh Kratié ngày nay, đồng thời với vua Jayavarman II (802-850). Năm 803, Nữ Vương xây một ngôi tháp ở Cambhupura, là đế đô cũ của vua Mahendravarman (600-615). Kiến trúc của tháp nầy ảnh hưởng đạo Bà La Môn, nét hoa văn trang trí trên tháp như cẩm tú (như gấm như thêu). Bà thật xứng đáng bậc anh thư Chân Lạp.
"Tuy mang lấy tiếng hồng quần,
Cảnh tiên còn mến, cõi trần anh thư"
Nữ Vương theo Bà La Môn, tôn thờ các đấng Bhrama, Christna, Civa mà Đạo Cao Đài tạc tượng thờ trên nóc Bát Quái Đài. Ngươn linh của Bà là Nhị Nương ở cung Diêu Trì, có phận sự bảo hộ và phổ độ dân Cao Miên (Campuchia) theo Đạo mới. Nhờ vậy, mà việc phá rừng xây cất Toà Thánh trong buổi đầu mới thành tựu được.
3. TAM NƯƠNG:
Tam Nương cầm quạt Long Tu phiến, đón tiếp các chư hồn đến tầng trời thứ ba là Thanh Thiên, thả thuyền Bát Nhã nơi bể khổ, đưa các chơn hồn có đủ phước đức qua khỏi bến mê sang bờ giác, qui hồi cựu vị.
Trong một kiếp giáng trần ở Việt Nam, Tam Nương có tên là TUYẾN. Do đó Bài thài hiến lễ Tam Nương trong Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung có chữ khởi đầu là “TUYẾN”:
TUYẾN đức năng thành đạo,
Quảng trí đắc cao huyền.
Biển mê lắc lẻo con thuyền,
Chở che khách tục, cửu tuyền ngăn sông.
SỰ TÍCH:
Tam Nương rất quảng trí xuất hiện trần gian để độ thế, thường Cô chỉ mặc áo tràng trắng có viền kim tuyến (giống áo Chức sắc Nữ phái): "Tuyến đức năng thành đạo", mỗi khi Cô hiển hiện. Thế nên người đời thường gọi Cô là Bà Kim Tuyến.
Người ta còn truyền lại: Khi Nguyễn Hồng rời bỏ họ Trịnh, từ Thăng Long vào miền Trung tìm nơi đóng đô chưa được, thì may thay gặp một bà già mặc áo quần trắng có viền kim tuyến trên một ngọn đồi. Bà trao cho Nguyễn Hoàng một nén hương đang cháy và dạy:
- Ngươi hãy cầm nén hương nầy mà đi, bao giờ hương tắt thì đó là nơi đóng đô.
Theo lời dạy, khi nhang tàn, quả nhiên Nguyễn Hoàng thấy trước mắt một vùng núi sông hiền hòa (sông Hương núi Ngự). Thế nên Nguyễn Hoàng quyết chọn làng Phú Xuân (nay là Huế) làm kinh đô.
Để nhớ ơn bà già tặng nhang, Nguyễn Hoàng cho xây dựng trên ngọn đồi nầy một ngôi chùa. Đó là chùa Thiên Mụ bên sông Hương. Trong chùa có tháp Phước duyên làm biểu tượng của Huế, có tượng thờ Đức Di Lạc; nổi tiếng nhứt là tiếng chuông Thiên Mụ (Thiên Mụ là người đàn bà ở cõi Trời). Vì thế, Bà giáng hạ có phận sự độ khách tục khỏi biển mê và cửu tuyền vì giáo lý Cao Đài dạy: Vô Địa ngục, Vô Quỉ quan.
"Biển mê lắc lẻo con thuyền,
Chở che khách tục cửu tuyền ngăn sông".
Bà Tam Nương ở Cung Diêu Trì có phận sự phổ độ lương dân miền Trung và Nam Trung phần VN theo Đạo mới.
4. TỨ NƯƠNG:
Tứ Nương cầm Kim Bảng, hướng dẫn các chơn hồn đến tầng trời thứ tư là Huỳnh Thiên, làm giám khảo tuyển chọn các văn tài trong mỗi khoa thi. Ai hiền đức và học giỏi, Cô mới cho đỗ đạt.
Trong một kiếp giáng trần ở Việt Nam, Tứ Nương có tên là GẤM. Do đó Bài thài hiến lễ Tứ Nương trong Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung có chữ khởi đầu là “GẤM”:
GẤM lót ngõ chưa vừa gót ngọc,
Vàng treo nhà, ít học, không ưa.
Đợi trang nho sĩ tài vừa,
Đằng giao khởi phụng chẳng ngừa Tiên thi.
SỰ TÍCH:
Vào năm 1655, Chúa Nguyễn sai Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Hữu Dật đem quân vượt Sông Gianh ra Bắc đánh quân Trịnh. Trịnh Đào thua chạy về An Trường (nay là Nghệ An).
Quân Nguyễn thừa thắng đuổi theo chém giết vô kể, rồi chiếm Nghệ An. Cô Lê Ngọc Gấm sanh trong một gia đình thủ công nghệ bị chết trong cảnh loạn quân đó, lúc đó mới 9 tuổi. Linh hồn Cô phảng phất và tá túc ở Đền Sòng (Thanh Hóa nơi thờ Bà Liễu Hạnh).
Năm 1705, Cô chuyển kiếp vào nhà họ Lê ở Văn Giang, ông Hương Cống Lê Doãn Nghi nằm mộng thấy linh thần tặng cho họ Đoàn nên đổi từ họ Lê sang họ Đoàn. Ông Nghi lập gia đình, sau sinh được hai người con đều hay chữ là Tiến sĩ Đoàn Doãn Luân và bà Đoàn Thị Điểm. Như vậy cô Gấm là tiền thân của bà Đoàn Thị Điểm.
Bà bẩm sinh tư chất thông minh, văn hay chữ tốt, một giai nhân khiêm cung đức độ, được vậy là nhờ bà là chơn linh của Tứ Nương. Dưỡng phụ Bà là Thượng thư Lê Anh Tuấn tiến cử Bà vào cung Chúa Trịnh, nhưng bình sanh Bà không ưa cảnh quan quyền nên khước từ.
Bà dốc hết tâm trí vào việc trau dồi văn chương cho được "Đằng giao khởi phụng". Bà mở trường dạy học và dạy nữ công (nên tượng Tứ Nương cầm cây Kim Bảng). Bà chế ra hai cái túi: Một cái thêu kiểu tam hữu (tùng, trước, mai) và một cái thêu kiểu Bát Quái, ám chỉ Bà là Tiên nữ.
Năm 1927, Cha mất, Bà cùng mẹ về Hưng yên, nơi anh bà là Đoàn Doãn Luân đang dạy học. Ông Luân thường bày nhiều cuộc xướng hoạ để thử tài Bà. Một hôm, ông lấy chữ trong Sử Ký nói về Hán Cao Tổ để bà đối lại.
Bạch xà đương đạo, Quí bạt kiếm nhi trảm chi.
(Con rắn trắng đón đường, Ông Quí rút gươm ra chém.
Bà liền dùng một câu nguyên văn trong Sử ký (sách của Tư Mã Thiên) thuộc đời Ngu Thuấn nói về ông Hạ Vũ để đối lại:
Hoàng long phụ châu, Vũ ngưỡng thiên nhi thán viết.
(Con rồng vàng đội thuyền, ông Vũ nhìn trời mà than).
Còn nhiều giai thoại giữa ông Luân và Bà, và nhiều thi nhân khác. Nhiều người giàu có đỗ đạt nghe tiếng muốn cầu hôn đều bị bà khước từ và cho họ là bọn học vẹt, chớ không có thực tài văn chương như Tiến sĩ Nguyễn Công Thái, Nhữ Đình Toản. Thật đúng với hai câu:
"Gấm lót ngõ chưa vừa gót ngọc,
Vàng treo nhà ít học không ưa".
Bà chỉ ước mong có một người tài ba là Nguyễn Kiều đỗ Tiến sĩ lúc 21 tuổi, văn võ song toàn.
"Đợi trông nho sĩ tài vừa,
Đằng giao khởi phụng chẳng ngừa tiên thi".
Nhưng mãi đến năm bà 37 tuổi, ông Nguyễn Kiều mới xin cầu hôn với bà. Năm 1748, Nguyễn Kiều được bổ làm Tham Thị ở Nghệ An, Bà xuống thuyền theo chồng đến Đền Sòng (dưới chân núi Sùng), nơi thờ bà Công chúa Liễu Hạnh, Bà bị cảm nặng và mất ở đó vào ngày 11-9-1748, nhập vào chơn linh nàng Gấm. Đó là ngày tái hợp mà nàng Gấm đã hẹn với bà Liễu Hạnh (vốn là Ngũ Nương Diêu Trì Cung). Ông Nguyễn Kiều thương tiếc làm bài văn tế như sau:
"Ô hô! Hỡi nàng!
Huệ tốt, lan thơm,
Phong tư lộng lẫy, cử chỉ đoan trang,
Nữ đức trọn vẹn, tài học ngỡ ngàng.
Giáo mác, ấy bàn luận;
Gấm vóc, ấy văn chương;
Nữ trung hiếm có như nàng:
v.v.." (Hoàng Xuân Hãn, Chinh phụ Ngâm bị khảo).
Bà vốn là Tứ Nương Diêu Trì Cung, có phận sự mở kiến thức khiếu linh quang cho nhơn loại và nâng đỡ người sống như linh hồn được linh hoạt hay linh hiển để học hỏi giỏi giang ở tại cõi đời hoặc cõi vô hình.
Bà có phận sự phổ độ những nho sĩ, những người văn chương khoa bảng thành thị Bắc phần VN theo Đạo mới.
Bà Đoàn Thị Điểm đã giáng cho nhiều Kinh Thế Đạo như các bài: Kinh tụng khi Vua thăng hà, Kinh tụng khi Thầy qui vị, Kinh Cầu Tổ phụ đã qui liễu, Kinh tụng Cha mẹ đã qui liễu, Kinh cầu bà con thân bằng cố hữu đã qui liễu, Kinh tụng Huynh đệ mãn phần, Kinh tụng khi chồng qui vị, Kinh tụng khi vợ qui liễu. Cộng chung là 8 bài.
Nhất là tập NỮ TRUNG TÙNG PHẬN, theo thể thơ song thất lục bát (giống như tác phẩm Chinh phụ ngâm bà làm khi còn sống) gồm 350 vế, 1400 câu, thêm câu kết là 1401 câu: "Đời đời danh chói Cao Đài"
5. NGŨ NƯƠNG:
Ngũ Nương cầm cây Như Ý, tiếp dẫn các chơn hồn đến tầng trời thứ năm trong Cửu Trùng Thiên là tầng Xích Thiên. Nơi đây, chơn hồn được hướng dẫn đến Chiếu Giám Minh Cảnh Đài để xem rõ ràng các tội phước mà mình đã gây ra trong suốt kiếp sanh nơi cõi trần, rồi đến Cung Ngọc Diệt Hình để mở quyển Kinh Vô Tự cho chơn hồn thấy rõ quả duyên của mình.
Trong một kiếp giáng trần ở Việt Nam, Ngũ Nương có tên là LIỄU. Do đó Bài thài hiến lễ Ngũ Nương trong Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung có chữ khởi đầu là “LIỄU”:
LIỄU yểu điệu còn ghen nét đẹp,
Tuyết trong ngần khó phép so thân.
Hiu hiu nhẹ gót phong trần,
Đài sen mấy lượt gió thần đưa hương.
SỰ TÍCH:
Vào đời Hậu Lê, năm 1557 ở thôn Thái An, tình Nam Định, có nhà họ Lê, vợ mắc bệnh suy nhược không sinh đẻ được.
Một hôm, có một vị đạo sĩ đến nhà xin trị bịnh, bằng cách cho người chồng là Lê Thái Công đánh thiếp lên Thiên đình. Ông Lê Thái Công tình cờ thấy công chúa Quỳnh Hương lỡ tay làm bể chén ngọc, nên bị Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế đày xuống trần. Khi xả đồng tỉnh lại, Lê Thái Công được tin vợ sanh được một người con gái đẹp như tiên giáng trần, đặt tên là Liễu Hạnh.
"Liễu yểu điệu còn ghen nét đẹp"
Năm 1578, đột nhiên Cô Liễu "hiu hiu nhẹ gót phong trần" bỏ xác phàm trở về thượng giới trong khi chưa hết hạn làm khách trần chuộc tội. Thế nên sau đó Đức Thượng Đế ra lịnh Cô xuống trần lần nữa. Chính lần nầy Cô gặp Cô Gấm (Tứ Nương). Để công phổ độ sớm hoàn thành, Cô đi khắp vùng Bắc phần và Bắc Trung phần VN để giúp nhơn sanh. Cô xuất hiện giữa ban ngày ở vùng Phố Cát (Thanh Hoá) và nhiều nơi khác.
Để tỏ lòng biết ơn Bà, dân chúng xây đền thờ Bà ở nhiều nơi như: Phủ Giầy (Nam Định), Đền Sòng, Phố Cát (Thanh Hóa), Đền Sùng Sơn (Hà Nội).
Triều đình nghe danh phong tặng Bà là "Thượng đẳng Phúc Thần" (Thần ban phúc). Nhân dân gọi Bà là Mẫu Liễu, lễ vía vào ngày 3-3 Âm lịch.
Đến cuối đời Hậu Lê, một vị quan nằm mộng thấy Bà Liễu lên xe mây về trời. (Hoàng Trọng Miên, Việt Nam văn Học toàn thư. Sài Gòn 1959)
Bà là Ngũ Nương ở Cung Diêu Trì, có phận sự phổ độ nhơn sanh đồng bằng Bắc phần và Bắc Trung phần VN theo Đạo Cao Đài.
6. LỤC NƯƠNG:
Lục Nương cầm phướn truy hồn, tức là phướn Tiêu Diêu, độ dẫn khách trần, và tiếp đón các chơn hồn đến tầng trời thứ sáu là Kim Thiên, đưa chơn hồn đến Đài Huệ Hương xông thơm chơn thần, trỗi nhạc Thiên thiều đưa chơn hồn lên cõi Niết Bàn.
(Painting, c.1485. Source: http://en.wikipedia.org/wiki/Joan_of_Arc)
Lục Nương giáng trần ở nước Pháp là Thánh Nữ Jeanne d’Arc (1412-1431), một vị Nữ Anh hùng cứu nguy nước Pháp, sau đó lại giáng sanh ở Việt Nam có tên là HUỆ.
Do đó Bài thài hiến lễ Lục Nương trong Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung có chữ khởi đầu là “HUỆ”:
HUỆ ngào ngạt đưa hơi vò dịu,
Đứng tài ba chẳng thiếu tư phong.
Nương mây như thả cánh hồng,
Tiêu diêu phất phướn, cõi tòng đưa Tiên.
SỰ TÍCH:
Cô Hồ Thị Huệ là hậu thân của bà Jean D'Arc, theo Thánh giáo: Jean D'Arc (1412-1431) tự là Pucelle d'Orléans, nữ anh hùng nước Pháp, sanh ở Domreny (biên giới tỉnh Lorraine và Champagne). Bà thuộc gia đình nông dân, hiếu thảo vẹn toàn. Năm 13 tuổi (1428) trong lúc chăn cừu, Bà nghe tiếng nói thiêng liêng giục Bà cứu Hoàng Thái tử Charles VII và giải nguy cho nước Pháp.
Quân Anh vây Orléans, khi sắp hạ thành thì Bà xuất hiện (30-4) với một đội quân dũng cảm. Ngày 8-5, Bà đánh bại quân Anh. Nhờ đó, nhân dân Pháp vùng dậy tràn đầy hy vọng, thừa thắng xông lên. Sau đó Bà rước vua Charles VII về Rêm (Reims) để làm lễ tấn phong theo tục lệ bấy giờ. Năm 1430, Bà không chịu được thái độ của bọn cựu thần và cũng vì chán sống cảnh an nhàn sa đọa của triều đình phong kiến, Bà lại ra quân giải vây thành Compiègne. Bà bị quân Burgundian bắt, bán lại cho người Anh.
Bà bị giam cầm khổ sở. Sau cùng, tôn giáo pháp đình của người Anh kết án Bà là tà giáo phải bị hỏa thiêu vào ngày 30-5-1431 tại Rouen. Năm ấy Bà mới có 19 tuổi.
Bà Jeanne d'Arc là anh hùng nông dân Pháp, một biểu tượng trong sạch từ thể xác tới tinh thần. Sự xuất hiện của Bà chứng tỏ rằng sứ mạng của bọn quý tộc phong kiến và võ sĩ đã chấm dứt.
Năm 1920, lễ kỷ niệm Bà được nhân dân Pháp tôn vinh là quốc lễ. Bà là Lục Nương, có phận sự bảo hộ và phổ độ dân tộc Pháp theo Đạo mới. Bà đã phổ độ nhà văn Gabriel Gobron đắc phong Tiếp Dẫn Đạo Nhơn và nhiều người khác.
Sau Bà Jeanne d'Arc chuyển kiếp đầu thai ở Việt Nam tên là Hồ Thị Huê (hay Hoa) sanh năm 1790, con của ông Khâm sai Hồ Văn Vui và bà Hoàng Thị, người huyện Bình An, tỉnh Biên Hòa.
Lăng mộ họ Hồ hiện ở gần thị trấn Thủ Đức. Chính Bà đã phổ độ ông huyện Thơ ở Thủ Đức (sau đắc phong Đầu Sư) và hướng dẫn Đức Hộ pháp hành pháp tại Long Vân Thánh Tịnh (gần cây mùa cua Thủ Đức) trong buổi đầu khai Đạo.
Năm Bính Dần niên hiệu Gia Long thứ 5 (1805), Thế Tổ Cao Hoàng Đế và Hoàng hậu lựa chọn Bà Hồ Thị Huệ làm phối thất cho vua Minh Mạng.
Bà có đủ các đức (tư phong): Thục, Thuận, Hiền, Trinh, hết đạo hiếu kính. Vua Thế Tổ khen ngợi đặt tên là Thật. Thế Tổ bảo: Phi nguyên tên là Huệ, hoa thì chỉ nghe thơm mà thôi, chi bằng chữ Thật, Thật là gồm có quả phúc, nên trong bài thài có hai câu:
"Huệ ngào ngạt đưa hơi vị diệu,
Đứng tài ba chẳng thiếu tư phong"
Tháng 5-1807, Bà sinh ra Thiệu Trị được 13 ngày thì Bà băng, lúc mới 17 tuổi: "Nương mây như thả cánh hồng".
Bà là Lục Nương ở Cung Diêu Trì có phận sự phổ độ những người trong Hoàng tộc theo Đạo mới, như bà Từ Cung, mẹ của vua Bảo Đại. Bà Từ Cung được ân phong Phối sư Nữ phái. (xem thêm tiểu sử của Bà Lục nương)
Trong đàn đêm 24-2-1934 tại Tòa thánh, phò loan Hộ pháp - Tiếp thế, Lục Nương giáng cho biết bà là Jeanne d'Arc.
Trong một đàn khác, vào ngày 22-9-1934 phò loan Hộ pháp Tiếp đạo. Bà Jeanne d'Arc giáng dạy Đạo cho Bà Perreux như sau:
"Bonjour ma chère compatriote (Mme Perreux).
Je viens pour vous, par les prières sincères de nos frères en esprit".
Mme Perreux demande des explications sur la nouvelle religion, òu il y a des dames dignitaires.
"Oui, c'est la seule religion qui octroie aux femmes un pouvoir spirituel à peu près égal à celui des hommes. Elle mettra en vue une justice que la chrétienté a niée depuis longtemps ……"
(Les messages spirites Tây Ninh 1962 trang 103)
[Thanh Mai dịch:]
“Xin chào nữ đồng bào thân mến của Ta [bà Perreux].
Ta giáng vì các huynh đệ, do lời cầu nguyện thành tâm của các huynh đệ.”
[Bà Perreux xin Thánh nữ Jeanne d'Arc giải thích về nền tôn giáo mới có các nữ chức sắc.]
“Phải. Đây là nền tôn giáo duy nhất ban cho phái nữ một quyền năng tâm linh ngang bằng với phái nam. Nền đạo này cho thấy một sự công bằng mà đạo Thiên Chúa đã từ bỏ lâu rồi...”
(Thánh ngôn Tây Ninh 1962, trang 103)
Trong đêm Hội Yến Diêu Trì Cung đầu tiên (15-8 Ất Sửu, dl 1-9-1925), Lục Nương mời 3 Thiên sứ liên ngâm để dạy đạo.
Lục Nương:
Trót đã đeo mang cái nợ đời,
Gánh đời nặng lắm khách trần ơi.
Cao Quỳnh Cư:
Oằn vai thần đạo non sông vác,
Chịu kiếp trần ai gió bụi vùi.
Phạm Công Tắc:
Thương hải tang điền xem lắm lúc,
Công danh phú quí nhắm trò chơi.
Cao Hoài Sang:
Ở đời mới hẳn rằng đời khó,
Khó một đôi năm, dễ khó đời.
Lục Nương:
Ở thế sao chê tiếng thế buồn,
Buồn vui hai lẽ lấy chi đong.
Cao Quỳnh Cư:
Cân đai tuế nguyệt trêu hồn bướm,
Tên tuổi phong ba lắm bụi hồng.
Phạm Công Tắc:
Chiếc bách dập dồn dòng bích thủy,
Phồn hoa mờ mệt giấc huỳnh lương.
Cao Hoài Sang:
Bờ dương chừ đặng phong trần rảnh.
Quảy gánh thơ đàn dạo bốn phương.
Khi tái cầu, Lục Nương cho bài thi như sau:
Im lìm cây cỏ vẫn in màu,
Mờ mệt vườn xuân điểm sắc thu.
Gió dậy xao trời mây cuốn ngọc,
Sương lồng ướt đất liễu đeo châu.
Ngựa vàng ruổi vó thoi đưa sáng,
Thỏ ngọc trau gương dậm vẻ làu.
Non nước đìu hiu Xuân vắng chúa,
Nhìn quê cảnh úa giục cơn sầu.
7. THẤT NƯƠNG:
Thất Nương cầm bông sen, hướng dẫn các chơn hồn đến tầng trời Hạo Nhiên Thiên để bái kiến Đức Chuẩn Đề Bồ Tát.
Thất Nương là vị Nữ Tiên đầu tiên giáng bàn (thuở còn xây bàn) dùng thi văn để dẫn dắt các vị nguyên căn vào cửa Đạo làm môn đệ cho Đức Chí Tôn, để sau này các vị ấy trở thành tướng soái cho Chí Tôn mở Đạo.
Thất Nương lại để lòng từ bi tình nguyện lãnh lệnh Ngọc Hư Cung đến cõi âm quang để giáo các nữ tội hồn, để họ sớm thức tỉnh mà được tái kiếp trả cho xong căn quả và lo tu hành lần về cựu vị.
Trong một kiếp giáng trần gần đây nhứt, Cô có tên là Vương Thị Lễ, sanh năm 1900 tại Chợ Lớn, con của ông Vương Quan Trân và bà Đỗ Thị Sang (con gái của Tổng Đốc Phương ). Ông Vương Quan Trân làm Đốc phủ, là anh ruột của ông Vương Quan Kỳ, đắc phong Giáo Sư Thượng Kỳ Thanh ở Thánh Thất Cầu Kho. Cô Lễ bị bạo bệnh mất năm 18 tuổi.
(Ảnh tài liệu tamgiaodongnguyen.com) Bài thài hiến lễ Thất Nương trong Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung có chữ khởi đầu là “LỄ”: LỄ bái thường hành tâm đạo khởi, Nhân từ tái thế tử vô ưu. Trăm duyên phước tục, khó Ngày xuân gọi thế hảo cừu , bù buồn Tiên. SỰ TÍCH: Cô Vương Thị Lễ sanh năm 1900 tại Chợ Lớn, con ông Vương Quan Trân (anh ruột giáo sư Vương Quan Kỳ) và bà Đỗ Thị Sang (con gái của ông Tổng đốc Đỗ Hữu Phương). Nhà họ Đỗ sanh con khó nuôi, nên phải ra tận Huế thỉnh lư hương của Bà Cửu Thiên Huyền Nữ (tức Phật Mẫu) về thờ để mong phò hộ. Nhờ đó cô Vương Thị Lễ được nuôi lớn. Nhưng đến năm 18 tuổi Cô “phủi nợ xuống tuyền đài”. Theo lời của Đức Hộ pháp thuật lại thì tiền kiếp của cô Lễ là một vị công chúa, con một vị vua. Trong triều có một vị quan yêu cô, nhưng vì môn đăng hộ đối không lấy được cô nên vị quan bị thất tình mà chết. ệnh ngặt nghèo, chạy đủ thầy mà không hết. Thân mẫu cô mới truyền rao ai cứu được cô thì gả cho người ấy. Lúc đó có một ông thầy thuốc tây, học ở Hà Nội (Médecin Indochinois) mới bổ lên Saigon. Gia đình có rước đến chữa khỏi bịnh cho cô. Cô biết vị lương y nầy là ông quan trẻ thầm yêu cô trước kia vì “nợ ba sinh” Đến kiếp này, cô đầu thai vào gia đình họ Vương, đang theo học trường Sainte Enfance đến trình độ Brevet Elémentaire (Trung học Pháp), có nhiều danh gia vọng tộc đi hỏi cưới mà cô không chịu, sau Cô mắc phải b mà hai người cùng đầu kiếp để nên nghĩa vợ chồng. Song, thân mẫu Cô quên lời hứa, chỉ trả tiền cho thầy thuốc rồi thôi. Riêng cô vẫn giữ dạ keo sơn rồi trở bệnh cho đến chết. 8. BÁT NƯƠNG:Bát Nương cầm giỏ Hoa Lam, dày công giáo hóa và xây dựng Đạo Cao Đài buổi sơ khai, có phận sự độ rỗi các nguyên nhân còn tại thế, nhứt là nữ phái, tiếp đưa các chơn hồn đến tầng trời Phi Tưởng Thiên bái kiến Đức Từ Hàng Bồ Tát. Ai có việc chi cầu khẩn với Bát Nương thì được đắc nguyện một cách linh hiển. Tại Báo Ân Đường Kiêm Biên (Nam Vang), Đức Phạm Hộ pháp phò loan, Bát Nương giáng cơ cho bài Phật Mẫu Chơn Kinh để cúng Đức Phật Mẫu. Đây là một bài kinh vô cùng quan trọng của Đạo Cao Đài, cho biết quyền năng của Phật Mẫu, mà từ thuở xưa tới giờ chưa có bài kinh nào như vậy. sau đó lại giáng trần nơi nước Việt Nam, sanh vào nhà họ Hồ. Do đó Bài thài hiến lễ Bát Nương khởi đầu bằng chữ HỒ HỚN là hai họ: Họ Hồ Bát Nương cùng Đức Cao Thượng Phẩm luân phiên giáng cơ dạy về Luật Tam Thể và Diêu Trì Cung, tạo thành một tài liệu học đạo rất quý báu. Bát Nương giáng trần ở nước Trung Hoa vào thời nhà Tây Hán, có tên là Hớn Liên Bạch (họ là Hớn, tên là Liên Bạch có nghĩa là hoa sen trắng) , và họ Hớn, hoa sen trắng là Liên Bạch, tên Cô: HỒ HỚN HOA SEN TRẮNG nở ngày, Càng gần hơi đẹp lại càng say. Trêu trăng hằng thói dấu mày, Cợt mây tránh chức Phật đài thêm hoa. Bát Nương giáng cơ dạy về Diêu Trì Cung: (Phò Loan: Thừa sử Phước, Luật sự Nhung. Hầu Đàn: Luật sự Ảnh, Hợi, Tiếp, Tú, Hưỡng, Cao, Trường, Khoe.) Bát Nương. Chị chào mấy em, ệp với Thập Nhị Địa Chi mà tạo nên vạn vật. Nơi Cung Diêu Trì là nơi t Đêm nay Chị đến đặng chỉ cho mấy em được rõ Diêu Trì Cung là nơi nào? Nơi Ao Diêu Trì có một đài phát hiện Âm quang, đài ấy thâu lằng sanh quang của Ngôi Thái Cực, rồi đem Dương quang hiệp với Âm quang mà tạo nên Chơn thần cho vạn linh trong càn khôn vũ trụ. Phật Mẫu là Đấng nắm cơ sanh hóa, thay quyền Chí Tôn, đứng ra thâu cả Thập Thiên Can đem h iạo nên Chơn thần và thể xác đó vậy. Diêu Trì Cung là cung điện bằng ngọc Diêu ở bên Ao Thất Bửu chớ chẳng chi lạ. Ngọc tượng trưng cho sự quý giá, còn Diêu là chất hơi kết tụ mà thành. Dưới quyền của Phật Mẫu có Cửu Tiên Nương trông nom về cơ giáo hóa cho vạn linh, còn ngoài ra có hằng hà sa số Phật, trông nom về cơ phổ độ mà Quan Âm Bồ Tát là đấng cầm đầu. Quan Âm Bồ Tát ngự tại Cung Nam Hải ở An Nhàn Động. Còn Diêu Trì Cung thì ở tại Tạo Hóa Huyền Thiên. Nơi Cung Diêu Trì còn có một cõi Âm quang riêng biệt gọi là Phong Đô đặng giáo hóa các chơn thần đã bị lạc nẽo trên đường trần. Vậy vắn tắt hơn, Diêu Trì Cung là cơ sanh hóa vạn linh và vạn vật đó. Chị sẽ đến dạy thêm vào kỳ tới. Chị xin kiếu. 9. CỬU NƯƠNG:Cửu Nương cầm ống tiêu, có phận sự giác ngộ các chơn hồn bị đọa lạc nơi trần thế, tiếp dẫn các chơn hồn lên đến tầng trời Tạo Hoá Thiên, tầng thứ chín trong Cửu Trùng Thiên để bái kiến Đức Phật Mẫu.
(Ảnh tài liệu tamgiaodongnguyen.com)
Trong một kiếp giáng trần gần đây nhứt, Cửu Nương có tên là Cao Thị Khiết (Kiết), sanh năm Bính Thân (1895) tại Bạc Liêu, con của ông Đốc Phủ sứ Cao Minh Thạnh và bà Tào Thị Xúc. Cô là con gái út thứ 9, người anh ruột thứ 6 là ông Cao Triều Phát. Cô mất năm Canh Thân (1920) hưởng dương được 25 tuổi. Mộ của Cô vẫn còn tại Bạc Liêu, cách thị xã Bạc Liêu chừng hơn 2 cây số về hướng đi Vĩnh Châu. Mộ làm bằng đá xanh, rất kiên cố, xây giữa đồng ruộng, trong khu đất dành làm nghĩa trang của dòng học Cao ở Bạc Liêu.
Bài thài hiến lễ Cửu Nương trong Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung:
KHIẾT sạch duyên trần vẹn giữ,
Bạc Liêu ngôi cũ còn lời.
Chính chuyên buồn chẳng trọn đời,
Thương người noi Đạo, Phật Trời cũng thương.
Tóm lại, Cửu Vị Tiên Nương trông nom về cơ giáo hóa vạn linh. Tất cả các nghề hay, nghiệp khéo, về nữ công, hoặc về cầm, kỳ, thi, họa, cùng là triết học văn chương, đều thuộc về phần nhiệm của Cửu vị Tiên Nương giáo hóa và un đúc cho thành tài.
Ngày nay, thời Tam kỳ Phổ độ, Cửu vị Tiên Nương đã đắc thành Phật vị, gọi là Cửu vị Nữ Phật. Nhưng khi cúng Đức Phật Mẫu nơi Báo Ân Từ hay Điện Thờ Phật Mẫu, chúng ta vẫn còn niệm: NAM MÔ CỬU VỊ TIÊN NƯƠNG, là để ghi nhớ công đức của Chín Cô trong thời kỳ khai Đạo Cao Đài.
TẢ CHÍN VỊ TIÊN NỮ
Một mày liễu trong ngần đóa ngọc,
Hai má đào phải trọng tiết trinh.
Mảnh thân trọn hiếu thâm tình,
Phải hình thục nữ, phải gìn căn duyên.
Ba yểu điệu thuyền quyên vóc hạc,
Bốn mỹ miều đài các trâm anh.
Khi vui bóng nguyệt rọi mành,
Khi dòng bích thủy, khi cành hoa xuân.
Năm phận gái hồng quần đáng mặt,
Sáu vẹn toàn quốc sắc thiên hương.
Vào ra phụng trướng loan đường,
Vào ra ngọc các cẩm tường xem hoa.
Bảy trau chuốt thân ngà mặt ngọc,
Tám chín phần rèn tập nữ nhi.
Chung lo mối Đạo Tam Kỳ,
Giúp nhà Nam Việt kịp thì Long Hoa.
BÁT NƯƠNG
(25-4 Canh Dần 10-6-1950. Trích Thánh giáo Luật Tam thể Tây Ninh)
THI VĂN của CỬU VỊ TIÊN NƯƠNG
____________________
Ngày mùng 8 tháng 8 năm Ất Hợi (dl 5-9-1935)
CỬU VỊ TIÊN NƯƠNG
HOA tiên đỗ đẹp xinh Văn miếu,
Gót Tiên đưa yểu điệu nữ dung.
Cung Diêu ghé mắt thư hùng,
Reo tơ may gặp hội cùng tương tri.
NHỨT NƯƠNG
CẨM chức dệt câu thi biệt khách,
Bút Tiên nay vẽ nét tri hoan.
Xe mây lướt dặm trần hoàn,
Dòm theo nỗi khổ đôi hàng lệ sa.
NHỊ NƯƠNG
TUYẾN kim đưa khách chưa hòa,
Mượn gương bạch thố rọi nhà tri âm.
Ngân kiều cách bức bao năm,
Ướm buông lời ngọc hỏi trần vui chưa?
TAM NƯƠNG
GẤM Tô Huệ ngày xưa đề thảm,
Nét Tiên hoa sầu đạm vân phong.
Kìa thương những khách má hồng,
Ðẹp xinh tô đậm bụi nồng thế gian.
TỨ NƯƠNG
LIỄU yếu ớt những lo gió dội,
Có mảnh thân e nỗi khổ thân.
Riêng lo tài sắc hồng quần,
Không nhơ bợn tục, nợ trần lánh chơn.
NGŨ NƯƠNG
HUỆ trí định Tiên phàm đôi lẽ,
Cửa không môn mới nhẹ tiền duyên.
Phất phơ đưa phướn diệu huyền,
Trông vơi thấy khách cửu tuyền rậm chơn.
LỤC NƯƠNG
LỄ kỉnh để mấy chương tiết nghĩa,
Vô tự đề cửa tía chứa chan.
Trăm cay là phép tạo nhàn,
Có phong ba mới dựa hàng trượng phu.
THẤT NƯƠNG
SEN thì ở nơi hồ quán trược,
Công thì hay định phước vinh ba.
Non Thần nhắn bạn đường xa,
Ðường tu khổ hạnh mới là cao siêu.
BÁT NƯƠNG
KHIẾT tính nết thanh liêm là trọng,
Phép tu thân nhớ lóng là hơn.
Chuông mai dập thức mê hồn,
Cung Tiên mới đặng rửa hờn kiếp sanh.
CỬU NƯƠNG
Ngày 15-8-Nhâm Ngọ (dl 2-9-1942):
NHỨT khí tạo đoan cả địa cầu,
NƯƠNG theo Mẹ Cả giảng vài câu.
KÍNH dâng tam bửu hằng năm vẹn,
TẶNG lễ mừng thầm đắc chẳng lâu.
NHỊ Châu Chơn Võ nhớ cùng không,
NƯƠNG cõi Thiên cung gởi bóng hồng.
KÍNH tặng vài câu mừng bạn cũ,
TẶNG người hiếu hạnh chịu phòng không.
TAM kỳ khai mở Ðạo lần ba,
NƯƠNG náu ít lâu rõ báu hòa.
KÍNH lượng bề trên ban đức tánh,
TẶNG người tài trí hứng Ðài Cao.
TỨ đức vẹn toàn mới xứng danh,
NƯƠNG hơi nhang khói chỉ điều lành.
KÍNH mừng quí vị ân cần tịnh,
TẶNG khách nâu sồng diệt quới khanh.
NGŨ hành vận chuyển đoạt Huyền Thiên,
NƯƠNG níu đôi năm khỏe tự nhiên.
KÍNH có công tu nay gặp hội,
TẶNG người hữu hạnh phục qui nguyên.
LỤC lạc khua ran cả Ngũ châu,
NƯƠNG chi vật chất phải u sầu.
KÍNH xin tỉnh giấc lo tu sớm,
TẶNG quyết cầu ân cổi ách sầu.
THẤT thế náo nương chớ tưởng lâu,
NƯƠNG cùng quí vị chỉ đường cầu.
KÍNH đem đến tận bờ dương liễu,
TẶNG nghĩa đài sơn kẻ chực chầu.
BÁT vu hành khất bữa mơi chiều,
NƯƠNG nưởng mình to giống kẻ thiêu.
KÍNH đến Tây phương tầm Xá lợi,
TẶNG tình đồng Ðạo phải đồng yêu.
CỬU Thiên mở cửa rước người hiền,
NƯƠNG chí dắt dìu khách hữu duyên.
KÍNH lập công to qui cựu vị,
TẶNG tiền phát khởi lập căn nguyên.
Ngày 15-8-Bính Tuất (dl 9-9-1946):
Nhẫng ngồi giữ huỳnh hoa Ngạn Uyển,
Mà quên nghe đặng tiếng vĩnh sanh.
Dọn đường lều cỏ chòi tranh,
Tay nương con gậy một mình trông vơi.
NHỨT NƯƠNG
Trông động cũ màu trời biến sắc,
Trông cung nga thiếu mặt từ quân.
Trông xa đảnh Thánh non Thần,
Trông Ðền Ngọc Khuyết vắng phần Thiên lương.
NHỊ NƯƠNG
Nay đầm ấm con đường hạnh phúc,
Cõi phong trần gội chút hồng ân.
Tiêu diêu phai lợt mùi trần,
Tỉnh say với giọt nước ngần tẩy mê.
TAM NƯƠNG
Tưởng tròn phận tô xuê đảnh Việt,
Nương thuyền từ cứu tuyệt trần ai.
Ðường quê nào thấy Thiên Thai,
Công trình lập đặng Vân đài chí công.
TỨ NƯƠNG
Mở rộng cửa đại đồng vạn chủng,
Khai nẻo sanh cứu sống nhơn gian.
Trị tâm mở mắt song quang,
Khai đường Cực Lạc, mở đàng Lôi Âm.
NGŨ NƯƠNG
Ðưa gương rạng Quan Âm dẫn thế,
Diệt mê hồn tồi tệ kiếp căn.
Cam lồ rửa sạch phong trần,
Gương xưa để bước đi lần cảnh thăng.
LỤC NƯƠNG
Nào dè phép quỉ toan cải chánh,
Mượn quyền yêu so sánh Chí Linh.
Ðem thân lữ thứ làm binh,
Cầm gươm huệ chặt tan tành cung thương.
THẤT NƯƠNG
Hỡi nào kẻ lo lường nghiệp Ðạo,
Hỡi những trang nóng máu anh phong.
Ngôi Thiên để tựa bóng hồng,
Phục hưng gầy nghiệp con Rồng cháu Tiên.
BÁT NƯƠNG
Gầy sự nghiệp tổ tiên ngày trước,
Dựng miếu đường hưởng phước tự do.
Mảng trông bến cũ đưa đò,
Chơn quân lương tể gây trò vinh phong.
CỬU NƯƠNG.
Xin nhượng bút cho Bát Nương.
Ðào nguyên lại trổ trái hai lần,
Ai ngỡ Việt Thường đã thấy lân.
Cung Ðẩu vít xa gươm xích quỉ,
Thiềm cung mở rộng cửa Hà ngân.
Xuân Thu định vững ngôi lương tể,
Phất Chủ quét tan lũ nịnh thần.
Thổi khí vĩnh sanh lau xã tắc,
Mở đường quốc thể định phong vân.
Phẩm và Bát Nương giáng cơ
THÁNH GIÁO TRUNG THU CANH TÝ
(Đàn cơ tại Nữ Đầu Sư Đường, 21giờ16-8-Canh Tý;
06-10-1960)
Phò loan: Cao Thượng Sanh, Trương Hiến Pháp.
Hầu đàn: Bảo Thế, Nữ Chánh Phối Sư Hương Hiếu, Tả Phan Quân, Chức sắc Nữ phái CTĐ, Chức sắc Ban Pháp Chánh.
DIÊU TRÌ NƯƠNG NƯƠNG
Mừng các con nam nữ, Chức sắc và thiện tín.
Các con bình thân.
Mẹ đã vui lòng chứng lễ thành kính của các con nam nữ hiến dâng cho Mẹ nhân ngày Kỷ Niệm Diêu Trì Cung vừa qua.
Cái tinh thần đòan kết của các con, cái tinh hoa đạo đức của các con đã tiến bước phần nào. Nhưng Mẹ cũng lắm lo lắng đường tu các con hằng bị trở ngại, vì tà tâm còn nhiễu lọan trong một phần đáng kể các con của Mẹ.
Vì vậy, mỗi con đều thận trọng gìn giữ bổn phận của mình để tránh khỏi bị lôi cuốn vào vòng hiểm họa.
Các con, nhứt là Nữ phái, công phu các con lắm nhọc nhằn, thì con đường lánh giả tầm chơn, lập nên ngôi vị không phải khó. Mẹ trông ngày hội hiệp của các con sau khi trả vay hòan tất, nhưng đường thi lắm gay go, lướt khỏi cũng không dễ dàng. Các Tiên Phật đọa trần vìđó mà đành mất thiên vị.
Các con nên gắng tâm khổ hạnh, quyết chí tu hành thế nào cho được lòng trắng như băng, thanh như giá, không bợn một mảy lợi quyền bất chánh, thì cái ý chí cứng rắn của các con mới thắng nổi mọi cơ thử thách.
Đời đã tàn, thuyền Đạo sắp xa bến. Sự hung bạo của nhân lọai đã tới mức nào, các con cũng thấy rõ.
Mẹ băn khoăn vì bầy con hạ thế, chưa chắc ngày tương hội thiếu đủ thế nào? Mẹ mong các con xét nghĩ đủ sáng suốt trọn lành phận sự cho xứng đáng lòng tin cậy của Mẹ thì đó là đền ơn cho Mẹ vậy.
Mẹ có mấy lời sau đây, các con ái nữ của Mẹ khá để tâm:
THI
Đã dấn thân vào cửa sắc không,
Nữ nhi cực nhọc há nao lòng.
Phòng the vẹn phận trau gương thắm,
Liễu yếu đừng phen cợt gió đông.
Sóng khổ dẫu xao dòng nước trí,
Cành xuân gắng giữ mảnh hương nồng.
Đường về các trẻ xin ghi nhớ,
Cửa Khuyết hằng ngày Mẹ ngóng trông.
Mẹ ban ơn cho các con nam nữ. THĂNG.
THÁNH GIÁO TRUNG THU BÍNH THÌN
Trùng trùng ân điển phủ không gian,
Thánh nữ Tiên nương đức bủa tràn;
Đưa bước MẪU NGHI vào hạ giới,
Nương mây lướt gió giáng cơ đàn.
VÂN HƯƠNG THÁNH MẪU, Chị chào mừng các em nam nữ. Chị đến trước sắp xếp vài nghi tiết cho các em hành sự. Các em hãy chuẩn bị một vài bầu bạch thủy đủ dùng trong hai lần : một nửa cho lần đầu sau khi xả đàn, một nửa dành cho lần Hội Yến ngày mai. Nếu đến giờ Hội Yến các em có thêm thức rượu ngọt ngào cũng sẽ được ban ơn.
Này các em ! các em thật sự có công tu học hành đạo lẽ dĩ nhiên có những thân nhân được đắc vị Tiên Nương, Thánh Nữ, Thần Nữ, đều được ân ban TỪ MẪU đến dự Yến Bàn Đào đêm Trung Thu. Do đó trong phần nghi lễ ngoài bàn CỬU VỊ TIÊN NƯƠNG cách đó một mét các em hãy sắp tiếp một bàn Đại Yến ngay giữa chánh điện trên nền một tấm thảm xanh thay cho bàn ghế. Nghi lễ này được dọn sau khi cúng đại đàn. Chư Thiên ân thiện tín bình thân lưỡng ban gần bên tường để nhường chỗ cho việc sắp đặt. Sau đó sẽ được mời ngồi lại ngay hàng quay mặt vào giữa điện lưng xoay ra tường.
Ban Nghi Lễ hành lễ ngâm thi đối ẩm xong sẽ mời tất cả vào dự Yến. Sau khi dùng Yến xong, đọc kinh tiễn đưa là dứt lễ. Chư Thiên ân và các em có lễ vật chi, có thể được đem dự phần vào Đại Yến này.Ban Nghi Lễ cần chuẩn bị nhân sự chấp hành chu đáo trang nghiêm.
Kìa hào quang chiếu diệu, loan giá cận kề, chư Thiên ân cùng các em nghiêm chỉnh đàn tràng thành tâm tiếp giá Mẫu Nghi. Chị sẽ trở lại với các em sau khi Từ Mẫu hồi cung. Chị xuất ngoại nghinh tiếp.
Tiếp điển
THI
VÔ vi bàng bạc khắp nơi nơi,
CỰC lạc nhờ con biết dụng đời;
TỪ tốn lo tu đừng yếm thế,
TÔN ti lập đức phải tri thời.
DIÊU đình bổn thỉ tâm thường trụ,
TRÌ ngọc nguyên lai chí chẳng dời,
KIM khuyết hóa thân thời mạt kiếp,
MẪU nghi nhắc nhở biết bao lời.
Mẹ linh hồn các con ! Mẹ mừng các con nam nữ.
Giờ này Mẹ đến trần gian để các con lớn nhỏ được vui mừng. Mẹ miễn lễ tất cả các con đồng an tọa.
Trung Thu này Mẹ vui mừng nhìn thấy các con lớn nhỏ quây quần bên Mẹ đều là những niềm tin đạo tâm phụng Thiên sự dân. Những ngày qua Mẹ không đến với các con là để xem các con lập chí rèn tâm như thế nào trước sự biến chuyển của cuộc đời. Mẹ và các Đấng Thiêng Liêng từng dạy dỗ các con rất nhiều, đạo lý cung ứng hành trang cho các con không ít. Hễ đến lúc, hãy lấy ra mà dùng tùy thời hóa độ. Tuy Mẹ không đến nhưng vẫn có bên con, vẫn hằng săn sóc cho các con những khi nhọc mệt, hằng nâng đỡ dìu dắt các con trên dặm đường thiên lý vượt núi sang sông với những chiếc cầu lắt lẻo không tay vịn. Mẹ ngự ở đức tin sáng ngời của các con.
Kỳ hạ nguơn cộng nghiệp, các con phải thấy ân phước mà đừng để kẻ khác nhắc nhở; tình Vô Cực rất bao la, nhưng Thiên luật công bình không mẩy lọt. Mẹ mong muốn các con nam nữ đã được nhận lấy sứ mạng Thiên ân quyền pháp đem lại nguồn an lạc vĩnh cửu cho nhân sanh. Các con hãy khai nguồn an lạc riêng con cho thông suốt, đừng để vướng bận hoàn cảnh đa diện bên ngoài mới chóng thành công.
Hôm nay Mẹ ban huấn từ cho các con lớn nhỏ ghi nhớ mà tu học hành đạo.
Hỡi các con !
Trăng kia tròn khuyết đổi dời,
Huống chi con sống trong đời nhị nguyên;
Nếu con học đạo phật tiên,
Lạ gì những lúc biến thiên nhân tình.
Quí hồ một mảnh tâm linh,
Bản lai diện mục biết nhìn cho thông;
Nước kia, còn có lớn ròng,
Đời con sao khỏi trong vòng quẩn quanh.
Lòng con nếu thật chí thành,
Thủy chung như nhất tu hành mới ngoan.
Khi con vào chốn trần gian,
Là con đem đạo vào đàng thiên luân,
Biết rằng nghiệp quả do nhân,
Sao còn phiền não giận mừng đau thương.
Con ôi, học đạo hằng thường,
Là tâm thanh tịnh dứt đường quả nhân.
Lạ gì điên đảo giả chơn,
Mà con vọng động cho sờn đạo tâm,
Cái cơ biến dịch thăng trầm,
Người tu dụng đó mà cầm máy linh.
Quí là con trọn niềm tin,
Là tu tứ trí là gìn tam công.
Tâm cùng trời đất huyền đồng,
Thân hòa vạn hữu ngoài vòng biển mê.
Là con đem đạo bồ đề,
Đất trời vạn vật quay về một tâm,
Lòng con sẵn có vui thầm,
Dị đồng sai khác cũng tầm nguồn vui.
Con ơi, bước đạo chớ lùi,
Đạo là hồn nuớc sụt sùi sao nên,
Lạ gì vật chất đảo điên,
Nay còn mai mất biến thiên không chừng.
Ai tường cuộc thế đầy lưng.
Rủi may sanh tử nhân thân thế nào ?
Ai tường nắng hạn mưa rào,
Thiên tai chiến họa ra sao bao giờ.
Quí là con tỉnh giấc mơ,
Là tâm giác ngộ là cơ diệu huyền;
Là đường giải thoát nghiệp duyên,
Là tu tự độ là giềng độ tha.
Hồng ân TỪ MẪU chan hòa,
Cho con hạnh hưởng làm quà Trung Thu.
Đèn lòng đừng để mờ lu,
Đạo tâm đừng để bôn xu nhiễm trần.
Bao giờ tan áng huyền vân,
Trời trong mưa tạnh lộ vầng trăng thanh,
Tình trăng muôn thuở trong lành,
Như tình TỪ MẪU tài thành thuận nhu.
Thương thân con rán lo tu.
Mẹ đã ban hồng ân và bạch thủy cho con đồng thọ hưởng, các con nhớ lời VÂN HƯƠNG THÁNH MẪU đã dạy. Các con nên nhớ vào giờ công phu thiền định khai mở cõi lòng tịnh khiết để tiếp nhận luồng hồng quang thiên điển. Nhiếp thu được nhiều hay ít là do ở lòng của con. Hồng quang thiên điển luôn luôn bủa trùm để cứu độ sanh linh. Các con hãy giác ngộ, hãy ý thức với nhau để cùng tu hành hạnh hưởng. Mẹ cùng phật tiên thánh thần sẽ đến dự lễ Hội Yến Bàn Đào đêm mai. Các con nhớ trật tự thanh tịnh cần được tôn nghiêm là cực lạc đó con, nhất là các con không nên bỏ sót một con nào dù là lớn hay nhỏ. VÂN HƯƠNG sẽ đến với các con. Tất cả các con nam cũng như nữ về dự lễ hôm nay cần ghi nhớ lời Mẹ dạy. Mẹ ban ơn lành tất cả các con.
Mây lành phủ khắp mười phang,
Điển linh lớp lớp hàng hàng phi thăng.
Tiếp điển:
VÂN HƯƠNG THÁNH MẪU, Chị miễn lễ tất cả các em đồng an tọa. Chị xin phép Mẹ ở lại để có vài dòng đạo lý cùng với các em gọi là quà Trung Thu.
Này các em ! Đời con người có hai cuộc sống một là tâm linh, hai là nhân sinh. Về tâm linh các em đã từng thực hành và hiểu tâm linh là chủ sử thần minh của tứ chi ngũ quan. Nếu tâm linh mờ tối không được luyện trau thì đời sống của con người chỉ là công cụ cho vật chất, thì thật là uổng phí. Thế nên các tôn giáo từ xưa chú trọng về phần tâm linh trước nhất. Về nhân sinh cuộc sống gắn liền với thiên chức, gia đình, xã hội, nước non. Phải làm mới có mà ăn, phải dệt mới có mà mặc, phải hoạt động mới có mà sống, mà ở. Là nhân sinh không ai chối bỏ được những điều này. Tuy nhiên nếu tâm linh mờ đục, thì cuộc sống nhân sinh thường hay lầm lạc, xáo trộn trật tự kỷ cương để gây nên những trái oan hận thù vì sống, ăn, mặc, ở. Thế nên, con người biết giữ được mực độ quân bình cho chính bản thân là tâm linh phải lo trau luyện cho thanh thoát, đừng để thất tình lục dục bao vây. Có thế mới hòa vào xã hội nhân sinh để sống một cuộc sống có ý nghĩa siêu nhiên hơn. Khi con người tự thấy lòng bác ái vị tha nẩy nở là biết sống đời sống Tề vật của Trang Chu hay Bình đẳng quan của Thích Giáo. Tâm linh và nhân sinh
không thể tách rời mà phải luôn luôn gắn liền với nhau nhịp nhàng sinh động vô kỷ, vô công, vô cầu, vô danh, tự khắc các em sẽ hòa mình vào đại thể mà hưởng thú thiên nhiên, mà dự yến Bàn Đào.
Các em Thiên ân hướng đạo nam nữ ghi nhớ lời Chị vừa phân. Các em nên nhớ trần gian vạn bịnh nan y, thì những lương y, bác sĩ cần phải đối chứng lập phương chớ không thể dùng một toa thuốc gia truyền mà chữa bệnh được.Đạo là năng phương năng viên, ủy khúc tùy hình để giúp người nên
đạo đấy em ạ.
Chị chào giã từ tất cả các em.
Mây lành noi dấu Mẫu Nghi,
Nương lằn điển huệ, Diêu Trì hồi cung.
(Trích Thánh giáo CQPYTGLĐĐ)
THÁNH GIÁO TRUNG THU ĐINH TỴ
Thi
Gát áng tường VÂN gót lãng du,
Ngút trầm HƯƠNG nhẹ thoảng hương thu;
Dừng chơn THÁNH địa nào chơn thánh,
Nầy ĐẤNG MẪU NGHI đã vận trù.
VÂN HƯƠNG THÁNH MẪU chào chư Thiên ân hướng đạo, chư đạo tâm nam nữ. Đêm nay Đức VÔ CỰC TỪ TÔN sẽ giá lâm ban ơn cho chư Thiên ân và các em lớn nhỏ. Chị đến trước giờ này để cùng các em hàn huyên đạo sự cùng với món quà để dâng Yến Bàn Đào cùng các em. Tuy vô hình vô tướng mà thể chất sáng ngời để cùng sắp chung với các em hầu hiến dâng lên ĐỨC VÔ CỰC TỪ TÔN. Mời tất cả các em đồng an tọa.
Này các em ! Ngày tháng trôi qua, dòng đời lưu chuyển, thu này lại đến trần gian như những mùa thu trước. Công lệ vẫn dịch hành mà sự việc nhân sinh có khác. Dầu muốn biết hay không muốn biết thì sứ mạng thu liễm của mùa thu vẫn phải mang nhiều gió mưa ảm đạm và mầm sống phải tiềm phục trong gió rét đông thiên. Công cuộc tiến hóa êm điềm không hơi không tiếng ấy đã mặc khải cho những người hành giả bao nhiêu là lý đạo. Chị nhân đây cũng góp nhặt những tinh hoa để làm quà dự yến với các em.
Mỗi độ thu sang, không phải chỉ có tự bây giờ, mà đã có từ lâu, ĐỨC VÔ CỰC TỪ TÔN ban rải hồng ân đến thế gian cho khắp cùng con cái để đầy đủ tú khí thiên nhiên. Con cái sẽ tự ấp ủ ung đúc giá trị bất biến để tiếp nhận từ nơi Đấng Trọn Lành.
Ngày nay chư Thiên ân và đạo tâm đang thực hiện sứ mạng thâu liễm trên mảnh đất nhỏ bé này để tạo lập cõi đời thánh đức theo đúng Thiên cơ, thì thời tiết nắng mưa chỉ là động năng thúc đẩy cho sự kết tinh được đầy đủ nhân lành giống tốt để chờ đến lúc phục sinh. Sứ mạng dù có đi sau vết chân những người được mệnh Trời ban trao để cứu nhân độ chúng, nhưng mọi giá trị chân chính của Đại Đạo chỉ là phương thức dung hòa tổng hợp mới tạo được ngôi vườn Thánh Địa Nam Bang.Vì thế mấy mươi thu qua, chư Thiên ân và các em được trực tiếp linh cơ học lời thánh huấn và thọ hưởng hồng ân dự hội Yến Bàn Đào cùng các hàng tiên phật. Ý nghĩa huyền nhiệm này không phải chỉ có ở ngọn cơ hay lời văn giá vẽ cùng những lễ lộc linh đình, mà có giá trị chân chính ở tự nơi tầm sâu tâm não của mỗi người tín đồ hành lễ. Thế chư Thiên ân và các em có nghĩ gì khi được dự Yến Bàn Đào không. Nếu các em có những ý nghĩ về giá trị của quả ngon ngọt, trong đó có ý nghĩa trị bệnh, được phước. . .v. .v. thường lắm các em ạ ! mà nó phải có những ý nghĩa mà tất cả các em phải
thấu triệt giá trị đương vi.
Linh dược nan trừ oan trái bệnh, thần đơn bất trị nghiệt ma tâm. Ca Diếp khi xưa chỉ nhìn cành hoa sen nơi tay Đức Phật mà ngộ đạo, thế là nghĩa làm sao ? Hoa sen khiết tịnh đẹp tươi, hương thơm trầm mặc, nhưng phải có tự nơi bùn. Sứ Mạng Đại Thừa đó các em.Chỉ một cái nhìn cành hoa sen nơi tay Đức Phật mà Ca Diếp phải luân chuyển bánh xe cứu khổ tự mấy nghìn năm. Ngày nay các em thọ ân ĐỨC MẸ VÔ CỰC TỪ TÔN được dự Yến Bàn Đào giữa thời hạ ngươn mạt kiếp. Các em biết chăng ? Đó là năng lực tiềm tàng trong sứ mạng Thiên ân được ban trao quyền pháp độ dẫn quần linh.
Hoa sen mọc trong bùn. Cái ao bùn kia không thể làm trổ được cánh hoa sen, nhưng cánh hoa sen xuất phát từ ao bùn, nhờ dòng nước thanh lương với nắng sớm mưa chiều, sương khuya gió thoảng thâu liễm tiếp nhận thì cánh hoa sen mới được thành hình. Nếu như giá trị dầu ở trược hay thanh mà không có THƯỢNG ĐẾ, VÔ CỰC TỪ TÔN thì chẳng khác gì
những khối vô tri vô giác.
Người đời hằng ca ngợi rằng :"Hoa sen gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn". Quả thật giá trị bất biến ấy đã đưa chân bồ tát vào đời cứu khổ,
cứu nạn chúng sanh.
Trở về sứ mạng Tam Kỳ Phổ Độ: các em phái nữ là đức lợi trinh, dễ bị mê làm khổ đau vật chất, mà cũng dễ giác ngộ để lập đức bồi công. Âm nhu mà người đời thường cho rằng phái yếu , nhưng bên trong vẫn có điểm chơn dương để trưởng dưỡng bảo tồn, thì sự đắp đổi lưu hành cũng đồng một thể. Các em hãy bền lòng nhẫn nại cho đến khi không còn một vật xung quanh các em thì lòng các em mới thanh thoát vì tình thương vô cực mới gởi gắm trọn vẹn cho các em trên bước đại thừa thực hành Thiên Đạo.
Lời sau cùng của Chị là rót vào chung rượu nồng để ngày mai Hội Yến cùng với chư thiên ân và các em nữ đạo thân mến của chị.
Chư Thiên ân và các em hãy bình tâm tiếp nhận mặc khải của ĐỨC VÔ CỰC TỪ TÔN mỗi độ thu về. Chị cũng báo tin mừng cho các em là ĐỨC MẸ đã ban ơn cho một số thần thánh tiên nữ sẽ lâm đàn để đôi câu gọi là mùa thu liễm, và sự hiện diện đông đủ của chư phật tiên thánh thần nam nữ đồng dự hội Yến Bàn Đào với các em. Vậy các em hãy cố gắng sắp xếp nghi lễ cho thành kính trang nghiêm.
Các em hãy thành tâm tiếp giá, và các vị thánh thần đến hộ giá TỪ TÔN. Chị xin xuất ngoại ứng hầu. Lui.
Tiếp điển:
Mẹ mừng các con nam nữ.
THI
Đem tình VÔ CỰC rải muôn phương,
Con hỡi TỪ TÔN mãi nhớ thương;
Soi bóng DIÊU TRÌ tìm bóng trẻ,
MẪU NGHI vì trẻ giáng canh trường.
Giờ nay Mẹ đến với các con để các con vui mừng mà vững lòng tu thân hành đạo. Đêm nay các con hãy dự Yến Bàn Đào cùng chư thần thánh tiên phật. Mẹ miễn lễ các con đồng an tọa.
Hỡi các con mẹ dụng tiếng Diêu Trì là tượng trưng cho mùa đào tiên kết trái, và chư thần thánh tiên phật đến trần dự yến cùng các con là hòa hợp hai cõi sắc không đồng thọ lãnh sứ mạng hoằng dương chánh pháp phổ độ kỳ ba. Dầu các con nam hay nữ cũng đồng chung trách nhiệm.Các con hãy tự làm sáng cái đạo hằng hữu của các con rồi mới vững bước trên đường Thiên Đạo Đại Thừa.Con ôi !
Thi Bài :
Đạo đầu mối vần xoay sanh hóa,
Từ đất trời đến cả vạn sanh;
Trong con có đạo vận hành,
Linh tri hạt giống trọn lành phát ban.
Tâm giác ngộ khai đàng mở ngõ,
Chí hoằng dương sáng tỏ đạo mầu;
Cho đời hết cảnh bể dâu,
Cho người thoát khỏi ngục sầu vô minh.
Mẹ trao gởi chân tình VÔ CỰC,
Con nhận rồi chí đức chí tâm;
Dầu cho thế cuộc thăng trầm,
Độ đời con giữ một tâm vững vàng.
Cơ tiến hóa không ngừng, càng tiến hóa càng khai sanh, càng khai sanh càng diễn biến. Những con có Thiên ân sứ mạng hãy vững vàng sáng suốt để độ đời và phải luôn luôn nhớ lời Mẹ dặn : Thiên Đạo Đại thừa phải vong kỷ vị tha. Kỷ mà các con còn vong thì có còn chi mà bám víu. Còn kỷ là các con còn chấp. Còn chấp là còn tranh, thị phi thanh trược. Nếu như vậy thì sứ mạng khó hoàn thành đó các con. Muốn độ đời là phải hòa vào muôn ngàn sai biệt để giác ngộ người đời, giúp người tìm đến tâm linh đã tự có sẵn trong mỗi con đó. Có như vậy thì sứ mạng các con mới hoàn thành.
Các con hôm nay về chầu Mẹ đông đủ, và ngày mai dự Yến Bàn Đào .Mẹ sẽ ban hồng ân cho mỗi đứa hãy mang về sở tại địa phương mà chia sớt tình thương VÔ CỰC cho con nào chưa giác ngộ thương yêu, hãy giác ngộ và thương yêu nhau để xây hạnh phúc chung của các con.
Tiếp Thi Bài
Muốn tạo cảnh thiên đàng cực lạc
Phải dặn lòng giải thoát cho xong;
Trong con vốn một tình không
Lo chi chẳng được đại đồng đệ huynh.
Nhân đây Mẹ ban ơn các con Nữ Chung Hòa. Các con trọn lòng thành kính lo cho đạo, lo cho người tiếp nối với đám nhi đồng. Mẹ khuyên các con nên tu học thêm hơn và cố gắng về mọi mặt để xứng đáng là con yêu quí của Mẹ.
TIẾP BÀI
Các lễ phẩm huyền linh Mẹ bố,
Con chia nhau mà độ lẫn nhau;
Phần con dự yến bàn đào,
Cũng tình VÔ CỰC chan hòa vào con.
Các con ! Hôm nay mẹ đã ghi danh ban ơn mỗi đứa. Các con hãy tịnh tâm chờ đón hồng ân của mẹ.
Các con về dự lễ hôm nay hãy chuyển lời dạy của Mẹ ban ơn đến các con trong địa phương. Các con nhớ lời Mẹ dạy.Vậy các con nhớ lời Mẹ dạy mà thi hành cuộc lễ ngày mai. Mẹ ban ơn lành tất cả các con, Mẹ hồi cung. Thăng./.
SÁCH THAM KHẢO
1. Những bài thuyết đạo của Đức Hộ Pháp PCT.
2. Bài thánh giáo của Đức Cao Thượng Phẩm giải về Bát hồn
3. Quyển “Đức Phật Mẫu & Hội Yến Diêu Trì Cung”: Soạn giả Kim Hương- Tòa Thánh Tây Ninh
4. Quyển “Giải Nghĩa Kinh Thiên Đạo Thế Đạo”: Soạn giả Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng
5. Thánh giáo Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo năm Bính Thìn & Đinh Tỵ
6. Từ Hải Từ Điển (do Lê Anh Minh)
Bổn thỉ : Gốc khởi đầu. “Diêu đình bổn thỉ tâm thường trụ “ : Thường giữ cái Tâm nguyên sơ từ gốc khởi sanh ở Diêu đình. Tức tâm không xa rời căn cội đầu tiên, không thay đổi bản chất nguyên thủy tịnhkhiết thọ nhận từ Vô Cực.
Nguyên lai : Từ gốc mà ra. “Trì ngọc nguyên lai chí chẳng dời”: Giữ lấy ngọc tinh ròng chính gốc, không hề nản chí hay đổi ý.
Kim khuyết: Kim: vàng; chỉ tính chất quí báu cao trọng – Khuyết: hai cái lầu hai bên cổng hoàng cung, ở giữa có lối đi để trống gọi là khuyết.Cung khuyết: là nơi vua ở. Từ điển Từ Hải viết :Kinh sách Đạo giáo nói rằng trên trời có Hoàng Kim Khuyết Bạch Ngọc Kinh là nơi Đức Thượng Đế ngự. Kim khuyết ở đây có nghĩa là cung trời hay thiên cung nói chung, từ đó Đức Từ Mẫu giáng thế độ rỗi chúng sanh.
Nhị nguyên : trái với nhất nguyên. Nhất nguyên chỉ nguồn gốc chung của vạn vật, nơi không có sự phân biệt này khác mà là một bản thể thuần nhất. Thế giới nhị nguyên, trái lại có phân biệt đối đải, mâu thuẩn, làm cho vạn sự vạn vật biến hóa, thay đổi không ngừng. Tâm nhất nguyên là tâm bồ đề, tâm nhị nguyên là tâm phiền não.
Bản lai diện mục : tức chơn ngã, cái Ta thật chưa bị nhiểm trần, không bị vô minh che lấp
hiên luân : vòng chuyển luân của trời đất. Thiên luân là chu trình sanh hóa và tiến hóa của vũ trụ. Con người và vạn vật sanh ra ở trần gian để học hỏi rèn luyện hầu khôn ngoan, sáng suốt, thăng tiến dần dần. Đó là giai đọan nhập thế. Đến khi tâm linh giác ngộ, biết tu học, hành đạo giải thóat là giai đọan xuất thế, trở về nguồn gốc của vũ trụ tức Thượng Đế. Con đàng thiên luân là con đàng tiến hóa của vạn vật, từ Thượng Đế ra đi và trở về Thượng Đế.
Đạo hằng thường : hằng thường là không biến đổi, đạo hằng thường hay đạo bất biến, là sự tu hành giữ vững chơn tâm, không bị lục dục thất tình chi phối khiến gây nghiệp quả. Học đạo hằng thường để không bị luật nhân quả, trả vay, mới thóat luân hồi sanh tử.
Máy linh : hay pháp thân, là đạo tự thân linh diệu có thể ứng phó với mọi hòan cảnh, giữ cho đạo tâm không bị lung lạc.
Đó là đạo pháp nơi mỗi con người.
Tứ trí : theo Phật học tự điển của Đòan Trung Còn , Tứ trí là :
_Đạo huệ trí : tức Thật tánh
_Đạo huệ chủng trí : tức là cái trí hiểu biết các đạo trong thập pháp giới.
_Nhứt thiết trí : tức cái trí biết tất cả, biết rằng các pháp các tướng đều tịch diệt.
_Nhứt thiết chủng trí : cái trí hoàn toàn biết tất cả, biết rằng các pháp các tướng đều tịch diệt, biết hết các hành động, trạng mạo.
Tam công : công trình-công quả-công phu
Huyền đồng : thể nhập, hiệp một. “Tâm cùng trời đất huyền đồng” : Theo tư tưởng Lão Trang, tâm của bậc đắc đạo sẽ đồng nhất với bản thể vũ trụ hay Thiên tâm. Theo An giáo, tu giải thoát nhắm mục đích Tiểu ngã đồng nhất với Đại ngã.
Đạo bồ đề : tức tâm vô phân biệt
Đèn lòng : tức tâm đăng theo giáo lý Phật giáo;chỉ sự sáng suốt của Chơn tâm
Bôn xu : theo đuổi, chạy theo (danh lợi)
Tề vật : Theo Tề vật luận hay Tương đối luận của Trang Tử thì giữa con người và con người, giữa vật này và vật khác về thực chất không hơn kém nhau, nên không đề cao người này mà khinh khi người khác, không quí trọng vật này mà xem thường vật kia. Trang Tử viết :”Đứng ở chỗ khác nhau mà nhìn, thì buồng gan lá mật [khác nhau] như Sở và Việt. Nhưng đứng ở chỗ đồng nhất mà nhìn, thì vạn vật chỉ là một.” ( Đức Sung Phù)
Bình đẳng quan của Thích giáo : Quan điểm của đạo Phật xem tất cả chúng sanh đều bình đẳng. Bình đẳng tâm : “ Lòng bình đẳng đối với tất cả chúng sanh. Ay là lòng chứng ngộ rằng các pháp đều bình đẳng, tấm lòng ấy coi tất cả chúng sanh như nhau: Chẳng phân biệt chỗ oán, thân; chỉ một lòng thương xót tất cả mà thôi.” (Phật học tự điển-Đòan Trung Còn)
Năng phương năng viên, ủy khúc tùy hình : Có thể trở nên vuông, trở nên tròn, tùy hình thể mà uốn theo (cho thích hợp) . Ý nói tùy cơ ứng biến, không cố chấp để lúc nào cũng hành động đúng đạo lý.
HỘI YẾN DIÊU TRÌ LẦN ĐẦU TIÊN Trong Sử Đạo
Nguyên vào thượng tuần tháng 8 năm At Sửu (1925), Ba vị Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang được Thất Nương tiết lộ cho biết chút ít về Diêu Trì Cung ở từng trời Tạo Hóa Thiên nơi cõi thiêng liêng: Trên hết có Cửu Thiên Nương Nương cai quản, dưới có Cửu Vị Tiên Nương phụ tá, mà cô đứng hàng thứ bảy, gọi là Thất Nương, Hớn Liên Bạch là Bát Nương. . .Ba vị xin Cô cho biết cách cầu Cửu Thiên Nương Nương.
Thất Nương bảo: Ba anh muốn cầu Nương Nương thì phải ăn chay trước 3 ngày và tìm cho đặng Ngọc cơ thì cầu Lịnh Bà mới được. . .
Ba Ông rất mừng rỡ, chuẫn bị ăn chay cho đủ 3 ngày để cầu Cửu Thiên Nương Nương vào ngày Trung Thu sắp tới. Đêm ấy có Đấng AĂÂ giáng đàn, bảo ba ông nhơn dịp đó làm một cái tiệc chay để đãi 10 đấng Vô hình nơi Diêu Trì Cung là Cửu Thiên Nương Nương và chín vị Tiên Nương. Đấng AĂÂ còn dạy cách sắp đặt bàn ghế và trang hoàng nhà cửa.
Ong Cao Huệ Chương, con của Ngài Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu, có tham dự vào việc chưng dọn và đứng hầu trong buổi lễ ấy, thuật lại trong quyển “Đại Đạo Truy Nguyên” như sau:
“ Qua đến ngày thứ ba, là buổi hẹn hò, lại nhằm tiết Trung Thu, đúng đêm 14 rạng mặt 15 tháng 8, ngoài trời thì trăng thanh gió mát,trong nhà chú Tư tôi
(Ong Cao Quỳnh Cư) lại dọn dẹp trang hoàng, xem vào có vẻ tinh khiết lắm.
Đúng giờ Tý, cả thảy đều đủ mặt, tôi thấy chú Tư tôi đã sắp đặt dọn bàn dài, rải bông lá xung quanh; phía trong bàn, ngay chính giữa, để một bộ đồ trà, còn chín vị Tiên Cô, mỗi người một cái tách, sắp vòng theo bàn, hàng giữa dọn những trái cây tươi tốt, ngó vào rất lịch sự, tựa hình như đãi tiệc, vì chung quanh có để 9 cái ghế mây. Cuộc cúng nầy mấy ổng gọi là Phó Yến Diêu Trì, đến ngày nay hãy còn noi dấu lễ kỷ niệm nầy.
Đọan Chú Tư tôi đốt hương đèn lên, cả thảy đều quì lạy khấn vái, rồi đem Ngọc cơ ra cầu.
Thật quả có Lịnh Cửu Thiên Nương Nương đến, và đủ chín vị Tiên Cô, mỗi vị đều giáng cơ chào mừng mấy ổng. Khi ấy Thất Nương xin ba ông đờn, rồi mỗi người ngâm bài thi của mình làm đặng hiến lễ, còn Lịnh Bà và Cửu Cô an vị mà nghe. Chừng nhập tiệc, Thất Nương lại mời ba ông ngồi chung vào cho vui . . .mấy ổng liệu thế khó chối từ, mới đem thêm 3 cái ghế sắp sau lưng 9 cái ghế nọ, ba ông xá rồi ngồi xuống. . .
Cách chừng nửa giờ, Chú Tư tôi lại tái cầu. Lịnh Nương và chín vị Tiên Cô để lời cảm tạ chẳng cùng, lại hứa rằng:
“ Từ đây có Ngọc cơ rồi thì tiện cho
Diêu Trì Cung Cửu Cô đến dạy việc.”
Đêm ấy mấy ổng thức đến 3 giờ khuya mới nghỉ.”
YẾN DIÊU TRÌ CUNG
(Bài thuyết đạo của đức Hộ Pháp tại Cửu Long Đài, chiều ngày 15-8-Tân Mão;15-9-1951và 15-8-Nhâm Thìn; 03-10-1952)
“ Đức Chí Tôn giao cho Đức Phật Mẫu cơ quan siêu thoát, phải làm thế nào đặng độ 92 ức nguyên nhân trở về cựu vị.
Muốn đạt đặng Bí pháp siêu thóat ấy, chúng ta ngó thấy Đức Phật Mẫu đã làm gì? Đức Chí Tôn giao cho Đức Phật Mẫu nắm quyền hành để rước hết những chơn thần khi đã đạt pháp, tức nhiên đạt cơ siêu thoát, lập vị mình đặng vào cái địa vị thiêng liêng, đạt đặng thì phải về hội yến cùng Đức Phật Mẫu . . .
Thật ra hôm nay chúng ta hội hiệp cùng nhau đây, nó sẽ trở thành một tương lai, cũng như bên Thánh giáo Gia Tô, họ có phương thông công cùng Đức Chí Tôn đó vậy.
Hạnh phúc thay cho những người đặng Hội Yến Diêu Trì hôm nay, tức nhiên đặng hồng phúc hội hiệp cùng Bà Mẹ thiêng liêng của chúng ta, lẽ dĩ nhiên được mang sứ mạng thiêng liêng nơi mình. Cả toàn con cái của Đức Chí Tôn cũng thế, nam cũng thế, nữ cũng thế, kẻ Đông người Tây, kẻ Nam người Bắc, đem cả cơ bí mật thiêng liêng của Đức Chí Tôn là lòng yêu ái của Ngài mà rải khắp cho toàn thể con cái của Ngài đều hưởng. . .
Tóm lại, Bí pháp của Hội Yến Diêu Trì Cung là Đức Chí Tôn (giao cho đức Từ Mẫu) đem cơ quan giải thóat xuống thế đặt trong cửa đạo Cao Đài để toàn thể các tín đồ được hưởng.
Theo Cổ luật, thì người tu một khi đắc đạo, Chơn hồn được lên Diêu Trì Cung dự Hội Yến Bàn Đào, được Đức Phật Mẫu ban cho ăn trái đào tiên và uống tiên tửu.
Ngày nay, thời Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương vâng lịnh Đức Chí Tôn giáng xuống phàm trần, mở tiệc Hội Yến Diêu Trì Cung tại đền thờ Phật Mẫu để toàn cả con cái của Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu về hội hiệp cùng Đức Mẹ Thiêng liêng, dâng Hoa Quả, Rượu, Trà lên Đức Mẹ, và Đức Mẹ sẽ ban tặng lại cho con cái của Ngài, để con cái gội hưởng hồng ân của đức Phật Mẫu, làm cho tâm đạo phấn chấn thêm lên, làm động cơ thúc đẩy con cái mau tiến hóa trên bước đường tu niệm, sớm trở về hội hiệp cùng Phật Mẫu. Mà một khi được hội hiệp cùng Đức Phật Mẫu thì tức nhiên là đắc đạo, giải thóat khỏi luân hồi.
Đó là Bí pháp của Hội Yến Diêu Trì Cung.”
(Trích lục quyển Báo Ân Từ & Hội Yến Diêu Trì Cung; Kim Hương, Tòa Thánh Tây Ninh)
dienbatn giới thiệu.
Không có nhận xét nào: